Huyền Thoại & Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm
Mạn
đàm với Vĩnh Phúc:
Huyền Thoại & Sự Thật
về Chế Độ Ngô Đình Diệm
về Chế Độ Ngô Đình Diệm
Nguyễn Văn Lục
Đúng hơn là cựu nhà
báo BBC, Vĩnh Phúc. Ông đã về hưu từ năm 1996, cũng hơn 10 năm rồi. Gần 20 năm
làm biên tập viên cho chương trình Việt ngữ đài BBC, ông tích lũy cả khối
chuyện trên trời dưới đất, chuyện thật, chuyện giả và nhất là những chuyện lắt
léo hậu trường, chuyện người, chuyện đời,… Có chuyện đã nói ra, có chuyện chưa.
Chưa nói vì thời lượng phát thanh, vì chính sách của BBC, vì tế nhị, vì chưa có
cơ hội nói,… Hôm rồi đến Canada, trong suốt hai ngày mạn đàm, phần lớn ông là
người nói, tôi, Nguyễn Văn Lục (NVL), người nghe. Ông nói đủ đề tài, từ Duyên
Anh, Ngô Đình Diệm, Trần Kim Tuyến. Ông đã nói liên miên, nói không ngưng nghỉ,
không một tờ giấy trước mặt.
Đến nay nghe rồi thì
tôi có thể sờ thấy Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Diệm. Chỉ rất tiếc không có bà Nhu.
Những Huyền thoại và Sự thật
về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc
về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc
(NXB Tam Vĩnh, 2006 London)
Nguồn: Vĩnh Phúc (*)
Nguồn: Vĩnh Phúc (*)
Nhân dịp Vĩnh Phúc cho
tái bản cuốn: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm,
tôi ghi lại một phần nội dung cuộc mạn đàm liên quan đến quyển sách mới tái bản
của ông. Mặc dầu có cảm tưởng ông biện giải cho những sự thật về ông Diệm, tôi
không tìm thấy nơi ông về một cảm tình quá độ, một parti–pris, ông vẫn gây cho
tôi một cảm tưởng, biện hộ hẳn là có, nhưng vẫn thong dong thoải mái, vẫn có
một thái độ khách quan chừng mực, trí thức và cẩn trọng. Điều quan trọng nhất,
ông bằng mọi cách mọi giá tôn trọng sự thật như thái độ chọn lựa cân bằng các
người được phỏng vấn. Chọn người được phỏng vấn ở nhiều góc độ khác nhau khiến
cho sự kiện được nêu ra đạt được độ khả tín cao. Ông không có thói quen cường
điệu hóa một sự việc, một biến cố hay nói huỵch tẹt ra là ông không nói phét,
chủ quan cho mình nắm được sự thật. Có những điều tôi đặt ra cho ông mà ông
không nắm rõ, ông thẳng thắn thú nhận là điều này ông không biết rõ…
Cuộc mạn đàm được diễn
ra như thế nào?
Ông là người diễn
xuất, tôi chỉ là chân kéo màn.
NVL: Trước
hết, xin ông cho biết cơ duyên nào đưa ông đến làm việc cho đài BBC, rồi từ đó
mở đường dẫn lối đến việc ông viết cuốn sách này?
VP: Tôi chỉ xin nói
sơ lược thôi.
NVL: Xin ông 15
dòng.
VP: Đến Pulau Bidong
là để chờ đi Mỹ. Vậy mà không ngờ, đã làm cho BBC gần 20 năm. Nghĩa là từ 1979
đến 1996. Khoảng năm 1988, mình giữ chức vụ Editor. Trong ban Việt ngữ hồi đó
có ba người editor. Nếu cần thì Editor sẽ thay thế trưởng ban để điều khiển
chương trình.
NVL: Tôi được biết
BBC đã nhận ông ngay từ khi còn trên Pulau Bidong. Nhiều người biết không khỏi
ngạc nhiên và nể phục. Thật ra câu chuyện đó đã xảy ra như thế nào?
VP: Ở đời, có những
chuyện xảy ra không tính toán trước được. Nó như một khúc ngoặt cuộc đời. Chẳng
bao giờ có ý nghĩ mình sẽ sang Anh. Ai cũng chờ đi Mỹ cả. Lúc đó chờ đợi đi Mỹ
tính ra cũng 6, 7 tháng rồi. Bởi vì ở Mỹ có nhiều bạn bè, anh em bà con.
Câu chuyện nó như thế
này. Có một đại diện BBC là Michael Butler sang đảo để tuyển nhân viên. Đúng ra
là để test ông nhà báo người Việt gốc Hoa là ông Trần Quốc. Ông M. Butler mới
nhờ mình — lúc đó là cố vấn cho Ban thông dịch – tìm kiếm Trần Quốc. Trần Quốc
đã bỏ đi Mỹ. Tôi nói với M. Butler:
- “Sorry, ông ta đi
Mỹ rồi”.
M. Butler tỏ vẻ thất
vọng nói:
- “Tiếc quá, vừa
mất công, vừa tốn tiền”.
Rồi nhìn mình dọ
hỏi:
- “Anh có muốn
làm cho BBC không?”
Mình trả lời là:
- “Tôi đã
chuẩn bị đi Mỹ rồi. Nhưng anh cứ thử xem sao? Chắc gì tôi có đủ khả năng?”
- “Nói chuyện với
anh từ nãy đến giờ tôi tin chắc anh có khả năng. Chỉ cần test anh về khả năng
viết cho đúng thủ tục thôi. Anh bằng lòng thì để tôi test nhé ?”
-“ OK, bây giờ là
trưa, để cho tôi về ăn cơm trưa xong cái đã.”
NVL: Có vẻ như
Butler đi xin ông nhận vào làm cho BBC thay vì ông xin sang BBC làm việc.
VP: Không dám nghĩ
thế đâu, chỉ vì Butler đặt mình vào một tình trạng mà trước đó mấy phút mình
không bao giờ nghĩ tới. Mình bèn kiếm ông cha Phó trại, tạm mượn cái lều của
ông ấy, mình “đuổi” ông ra khỏi lều. Lúc đó trời nắng chang chang, tiếng loa
phóng thanh ồn ào gọi dân đi lãnh lương thực. Michael Butler đưa bài test. Phần
mình thì ngoáy cho xong. Phải dịch những bài bình luận, despatch, bản tin tường
thuật của phóng viên từ các nơi gửi về, dịch ngược, dịch xuôi, rồi một bài
phóng bút, viết theo một trong ba đề tài cho sẵn.
NVL: Có thử giọng
không? Cái này ông có phần ăn chắc rồi?
VP: Mình cũng hy
vọng như vậy. Thử xong thì thu không rõ vì ồn quá. Ông Butler đòi thử lại. Mình
“cóc” chịu thử lại lần thứ hai. Được thì được, không được thì thôi. Hai tuần
sau nhận thư Luân Đôn: chưa có kết quả. Mình tống một thư sang “Sorry, tôi
không đi Anh, chờ đi Mỹ”. Trưởng Phòng nhân viên đài BBC lại gửi một thư
nói “Ráng chờ vì thủ tục hành chánh! Nhưng rất có hy vọng!”
NVL: Cứ như những
điều ông vừa trình bày, có vẻ như ông không thích thú gì với công việc ở BBC mà
nhiều người mơ cũng không được?
VP: Không phải là
không muốn. Nhưng vì chẳng quen ai ở Luân Đôn, bà con, anh em, bạn bè đều ở Mỹ.
Trời thì lúc nào cũng u ám, lạnh lẽo, đời sống lại quá đắt đỏ. Khi mới sang, cô
thư ký Ăng lê dẫn đi tim thuê một chỗ ở hai phòng ngủ, trên lầu. Tiền thuê nhà,
nó ngốn gần hết lương. Mình lại lên xin với xếp cho nghỉ việc và cho trở về
Pulau Bidong. Bạn bè bảo khùng mới bỏ BBC. Xếp lớn khuyên ở lại.
NVL: Thế rồi ở lại
luôn một lèo 17 năm đến khi về hưu? Một câu hỏi chót về chuyện này: Có gặp khó
khăn trong công việc hay với đồng nghiệp không?
VP: Công việc thì từ
từ cũng quen, không có gì khó khăn lắm. Nhưng với đồng nghiệp thì không dễ. Ờ
mà câu hỏi này hơi riêng tư và dễ đụng chạm lắm. Ông làm khó tôi đấy.
Nên biết mình là người
tỵ nạn đầu tiên được nhận vào BBC. Những anh em khác thì đều vào đó từ trước
1975. Có những người từ 1952. Dĩ nhiên, chưa hiểu nhau nên mình bị nhìn bằng
một con mắt khác. Cứ như thể mình là một người thiểu số đến từ Ban Mê Thuột,
mặc dầu thời trước 1975, mình cũng đã học ở Tân Tây Lan. Nhưng dần dần thì qua
khả năng văn hóa Việt, vốn văn hoá Anh, kiến thức viết lách, mình đã vượt qua
được những trở ngại đó. Và chỉ hơn 2 năm sau mình nhập chính ngạch ngay, một
trường hợp hãn hữu.
NVL: Thôi tạm dừng
ở đây. Cả ông vào tôi đều bậy rồi.
VP: Bậy điều gì?
NVL: Quá 15 dòng
rồi. Cùng cười. Tôi muốn biết trước khi viết cuốn sách, ông có
vẻ xu hướng cho chế độ ông Diệm. Ngay tựa đề đã cho người đọc nghĩ như thế:
Những huyền thoại và sự thật… Ông có thể nói thật, trước khi viết cuốn sách
này, thời còn trẻ, với tư cách một người Phật tử, thực sự ông đã nghĩ gì về chế
độ ấy và khi viết cuốn sách, mức độ ảnh hưởng của ông Trần Kim Tuyến đến đâu?
VP: Dù là gì, tôi
cũng viết với tư cách nhà báo mà thôi. Lúc còn trẻ, thời sinh viên, như bất cứ
người dân nào, mình nhìn chế độ ông Diệm là một chế độc tài, gia đình trị, ảnh
hưởng công giáo, tổng thống là người công giáo, cần lao thì có mặt khắp nơi,
chỗ nào cũng có cần lao. Mình còn nhớ có lần đi xe buýt về Thị Nghè. Gặp anh
tài xế hách dịch gắt ỏm tỏi. Hành khách không ai dám hé răng, vì họ thì thầm
bảo nhau ông này là người của bà Nhu. Tin đồn cho thấy cái gì
cũng của bà Nhu. Dĩ nhiên mình không tin hẳn. Nhưng ai cũng ngán và sợ.
Chẳng hạn có đám cháy
ở khu Khánh Hội, người ta đồn bà Nhu cho đốt để bán tôn của bà. Cái gì cũng của
bà Nhu, xe buýt bà Nhu, bột ngọt bà nhu, hãng Taxi bà Nhu cây xăng bà Nhu, bất
động sản khắp nơi của bà Nhu, chỗ nào cũng có người mập mờ nhận là Cần Lao …
Thấy nó vô lý, nhưng làm sao kiểm chứng được. Tin đồn cứ thế loang ra. Chưa kể,
mấy ông Thiên chúa giáo di cư, thái độ vênh váo cũng làm người dân khó chịu
lắm.
Vì thế mình cũng mong
muốn thay đổi chế độ. Nhưng bảo rằng mình chịu ảnh hưởng của ông Tuyến thì
không đúng. Sau này, trưởng thành hơn, có nhiều cơ hội tìm hiểu, mình cũng biết
phán đoán, biết sự thật nằm ở chỗ nào?
Cho nên, không cần gặp
ông Tuyến, tôi mới thay đổi. Từ khi chế độ ông Diệm rơi vào tay các tướng lãnh
cầm quyền. Mình nhận ra ngay thực chất của họ và bắt đầu chán. Họ tồi tệ hơn
thời ông Diệm. Mình có ăn học, mình thấy rõ ai hay, ai dở.
NVL: Ông cho biết
trong trường hợp nào, ông gặp ông Tuyến?
VP: Thật ra mình
biết về ông Tuyến từ lâu. Ông sang Anh từ năm 1975. Ông ở Luân Đôn một năm khá
chật vật, rồi bạn bè người Anh giúp đổi lên Cambridge, tìm kế sinh sống.
Mới đầu nghe đến tên
ông mình tránh né. Với thành tích trùm Mật Vụ tạo nên một hình
ảnh không đẹp về ông như đi bắt người, thủ tiêu, tra tấn …
NVL: Nhưng gặp rồi
thì thay đổi? Không thấy có tra tấn, thủ tiêu? Nhưng dư luận bên ngoài thường
cho rằng Trần Kim Tuyến như một thứ hùm xám, ác ôn, trùm mật vụ với nhiều tai
tiếng nhất đã được lưu truyền trong công chúng khá lâu. Đó là phản ảnh qua bài
viết của Nguyễn Văn Tuấn đăng trên Giao Điểm với bài: Đọc: Những huyền thoại của chế độ Ngô Đình Diệm…
VP: Tôi chẳng biết
ông Nguyễn Văn Tuấn này có biết gì về Trần Kim Tuyến không mà viết như vậy.
Thực sự tôi cũng chẳng đọc ông Tuấn nên không biết ông ta viết những gì. Nhưng
gặp ông Tuyến rồi thì tôi chỉ thấy một người hiền lành, đạo đức. Tôi chưa hề
nghe ông ta nói xấu một ai. Xin lỗi, vì ông ấy chết rồi mà tôi lại nói câu này:
Mình thấy ông ấy như một anh nhà quê, nói ngọng L, N, cử chỉ tự
nhiên, bình dị, có sao nói vậy, hút thuốc lào long sòng sọc.Từ
lần gặp lần đầu đến mấy năm sau mới trở thành thân, vì tôi muốn có thời gian
dài tìm hiểu. Thì thấy các bạn bè người chung quanh xa gần, ai cũng nói tốt về
ông ấy. Họ cho rằng ông làm mật vụ mà cứu người nhiều hơn là bắt người bỏ tù.
NVL: Trong hồi ký
“Việt Nam máu lửa Quê hương tôi” của ông Đỗ Mậu có viết, ông Tuyến khi
trốn ra nước ngoài đã mang theo một cặp đựng đầy hột xoàn? Việc
đó có không?
VP: Tôi có đọc và
tôi buồn cười. Theo cụ Võ Như Nguyện nói với tôi nguyên văn thì “thằng
Đỗ Mậu nó viết bố láo bố lếu ví dụ tôi mặc đồ tang, tay chống gậy trong đám
tang ông Ngô Đình Khôi. Tôi đã mắng nó rồi. Nó viết nhiều chuyện tầm bậy, tầm
bạ” .
NVL: Ông có thể kể
tên một vài người thường nói tốt về Trần Kim Tuyến.
VP: Cái này thì tôi
dám nói mà không ngại. Phải nói nhiều lắm. Cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, chị Bích
Thuận và chồng là Émile Ngô Trọng Hiếu, Cụ Đoàn Thêm, Cụ Cao Xuân Vỹ. Cả Duyên
Anh nữa. Duyên Anh có tha ai đâu, mà đối với ông Tuyến thì nói: Ôi
thằng cha đó lo cứu người không à! Duyên Anh bảo rằng ông Tuyến làm
trùm mật vụ mà đạo đức, hiền lành như vậy thì chọn lầm nghề rồi. Cụ Quách Tòng
Đức, cựu đổng lý văn phòng Phủ Tổng Thống nói: “Ông Diệm nóng lắm,
nhưng không ác độc. Ông Trần Kim Tuyến đàng hoàng, có tư cách”.
Còn cụ Cao Xuân Vỹ
thì: “Tuyến chỉ đọc tài liệu, viết phúc trình cho ông Tổng Thống, ông
Nhu. Trần Kim Tuyến chỉ cứu người chứ không hại người bao giờ cả. Ngoài ra, phải
công nhận đám nhân viên ngoại vi của Trần Kim Tuyến có làm tầm bậy. Tụi này
không thuộc Sở Nghiên cứu Chính trị. Anh nào cũng muốn lợi dụng Sở NCCT. Tuyến
có la rầy nhân viên, nhưng như anh cả la em, không trừng phạt nặng. Nói mật vụ
ác ôn là oan cho Tuyến”.
NVL: Ông có thể
cho biết một vài người mà ông Tuyến đã “tha” đã giúp?
VP: Ờ, nhiều lắm
chứ. Như bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, ông Nhất Linh, cụ Hà Thúc Ký. Hồi ông Tuyến
còn tại chức, nhiều nhà văn nhà báo nhờ ông nên không bị bên công an, mật vụ
làm phiền. Đến nay nhiều người còn nhắc.
Chỉ trừ cái huyền
thoại Trần Kim Tuyến cứu mạng Ngô Đình Nhu vào tháng 2/1947 là
hoàn toàn bịa đặt.
Về cụ Hà Thúc Ký thì
xin kể lại như thế này. Ông Tuyến vào trình ông Diệm về vụ bắt được Hà Thúc Ký,
lúc đó đang lẩn trốn và âm mưu ám sát ông Diệm. Ông Diệm nổi nóng quát: Đem
thủ tiêu nó đi. Ông Tuyến nhận lệnh ra về và băn khoăn khó xử. Và thay
vì thi hành lệnh thủ tiêu, ông Tuyến trì hoãn không làm gì cả. Hôm sau vào gặp
ông Diệm. Ông Diệm đã quên béng cái lệnh miệng đem thủ tiêu HTK, rồi hỏi:
- “Hà Thúc Ký
ra sao?”
-“ Dạ thưa cụ,
vẫn còn giữ đó, để tôi liên lạc với bên Công an”.
Ông Diệm nói:
-“Mình nóng mình
nói như vậy, thôi liệu giúp gia đình nó. Nói bên Công An đối xử tử tế với nó.”
Chút xíu nữa cái
mạng của ông Hà Thúc Ký không còn nữa, nếu ông Tuyến thi hành lệnh miệng ngay
đêm hôm đó. Ông Diệm lúc tức thì nói thế chứ đâu có ý định thủ tiêu Hà Thúc Ký.
Lại có trường hợp giúp
người mà mắc oan. Ông Tuyến đã có lần giúp cho Trần Quang Thuận – về Nha chiến
tranh Tâm lý, sau khi tốt nghiệp quân trường Thủ Đức – rồi mang vạ vì Thuận lái
chiếc xe Austin hai mầu xanh/trắng, mang số DBA 599 của anh ta chở Hòa Thượng
Thích Quảng Đức đến chỗ tự thiêu ở Ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng. Ông
Nhu “ghim” ông Tuyến vì vụ này.
NVL: Bốn câu hỏi
chót về ông Tuyến. Tại sao ông ấy không tự mình viết lại hồi ký?
VP: Ai cũng thúc dục
ông ấy viết đấy chứ. Nhất là Cao Xuân Vỹ. Tôi cũng thúc dục ông ấy viết nhiều
lần. Nhưng sau này, ổng có nói: “Moa (Lúc này đã thân, ông gọi
toa, moa) không viết vì sợ đụng chạm rất nhiều người. Viết ra sự thật thì
sẽ làm nhiều người mất mặt, trong đó có nhiều người còn sống. Nếu họ chết rồi
thì vợ con họ cũng đau lòng.” Sau đó có lần, chính ông đề nghị tôi
viết.
NVL: Xin hỏi lại
cho chắc, tôi vẫn tưởng chính ông đến đề nghị ông Tuyến cho phỏng vấn?
VP: Không, không có
chuyện đó. Chính ông Tuyến đề nghị là “Thôi Phúc toa viết đi, toa đến
đây, toa đặt sẵn những câu hỏi gợi ý, rồi moa theo đó trả lời”.
NVL: Về điểm này,
về nhân cách, cũng xin trân trọng ông.
VP: Không dám!
NVL: Thế còn về
những lời đồn “Sở Nghiên cứu Chính trị như một CIA Việt Nam, buôn bán thuốc
phiện lậu và kinh tài khai thác gỗ, xuất cảng lông vịt, vụ vé số kiến thiết”?
VP: Về điểm thành
lập Sở Nghiên cứu CT, mình đã trình bầy đầy đủ trong sách. Chỉ tóm tắt là khi
đó, ông Tuyến không biết một tý gì về vai trò của mình: từ ý thức chính trị đến
tổ chức. Chẳng ông nào có kinh nghiệm chống Cộng sản cả. Hoàn toàn tay mơ. Nhân
viên trên dưới 30 người, thử hỏi với số nhân viên như thế, làm được gì? Mỗi khi
cần nhân sự thì phải điều động bên Công an, Bảo an.
Về những đồn đãi buôn
thuốc phiện lậu, xuất cảng lông vịt là do hiểu lầm. Chỉ có khai thác gỗ là có
nhưng có lý do và đã được hai ông Diệm – Nhu cho phép. Xin xem chi tiết trong
sách.
Nói thêm là ngay cuốn
sách: Làm thế nào để giết một Tổng Thống, cái tựa do
Sức Mấy đặt ra cho loạt bài đăng trên báo Hoà Bình. Tác giả Cao Thế Dung chỉ
được gặp Trần Kim Tuyến có một buổi để hỏi chi tiết, về viết. Nhưng sau đó lại
làm như ông Tuyến là đồng tác giả, và viết quá sai sự thật. Ông Tuyến đã phản
đối và Hoà Bình đã cải chính ngay. Nhưng khi in thành sách, vẫn để tên ông
Tuyến, khiến ông rất bực mình.
NVL: Và câu hỏi
chót về ông Tuyến, ông có nhận thấy có sự trùng hợp về những điều thị phi,
những tiếng đồn xấu chung quanh ông Tuyến cũng là những điều thị phi về ông
Diệm và chế độ ấy? Phải chăng nó cùng nguồn gốc? Cùng bản chất? Và phải chăng
khi ông bênh vực ông Trần Kim Tuyến là một cách gián tiếp giải trừ những huyền
thoại về ông Diệm?
VP: Thưa ông, câu
trả lời của tôi đã nằm ngay trong câu hỏi của ông rồi.
NVL: Nay thì xin
đi vào chính nội dung cuốn sách của ông. So ra với lần xuất bản trước, 1998,
lần này dày hơn đến 100 trang. Điều gì đã thêm vào như thế?
Võ Như Nguyện:
“Thằng
Đỗ Mậu nó viết bố láo bố lếu ...
Tôi đã mắng nó rồi. Nó viết nhiều chuyện tầm bậy, tầm bạ”
Tôi đã mắng nó rồi. Nó viết nhiều chuyện tầm bậy, tầm bạ”
(Hình tháng 3/2006) Nguồn: Vĩnh Phúc
VP: Thêm vào vì mình
không hài lòng với lần xuất bản đầu tiên, thấy cần tìm kiếm thêm nhân chứng.
Chẳng hạn tìm hiểu thêm con người của ông Ngô Đình Cẩn. Ông có cướp đoạt tài
sản của người ta không, có cho bộ hạ khủng bố đối lập không? Những nhân chứng
mới như Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Tường Thiết, cháu và con trai Nhất
Linh giúp soi sáng thêm về chủ tâm quyên sinh của ông Nhất Linh để phản đối chế
độ? Ngoài ra còn những nhận xét, đánh giá quý báu của cụ Võ Như Nguyện,
một nhân vật theo rất sát với ông Ngô Đình Khôi rồi ông Diệm. Cuộc phỏng vấn cụ
Võ Như Nguyện quả thực hữu ích, vì nó củng cố thêm cho những điều tôi đã trình
bày trong lần xuất bản đầu tiên.
Nhưng thích thú không
kém là những lời của nhân chứng cựu đại úy tùy viên Lê Châu Lộc.
Nhờ Lê Châu Lộc ta hiểu thêm “con người” Ngô Đình Diệm như thế nào trong những
hoàn cảnh cay nghiệt của vai trò một tổng thống, thấu hiểu được những cá tính
con người ông ấy và nhất là cái cõi riêng tư, những nỗi niềm trăn trở và cô đơn
của ông ấy.
Nhà văn, nhà viết sử
làm sao đạt được cái cõi riêng ấy để hiểu được một con người?
NVL: Tôi cũng nhìn
ra được điều ấy, khi đọc những phần nhận xét của Lê Châu Lộc. Đó là những thứ
tư liệu ròng mà không dễ có được. Đỗ Thọ cũng viết về ông Diệm, nhưng để tình
cảm lấn lướt nhiều quá. Người đọc bị ngộp. Cảm thấy không tự nhiên.
Nhưng đâu là huyền
thoại và sự thật về con người Ngô Đình Diệm?
VP: Theo tôi thì giá
đọc được chính bài viết thì vẫn hơn là những điều tôi nói ra đây. Nhưng về cá
nhân ông ấy, tôi nghĩ ông là người có đạo đức và về phương diện chính trị, ông
là người có lòng với đất nước, với dân tộc, trước ông và sau ông, thật cũng khó
có người sánh bì.
NVL: Ông có nghĩ
rằng, những ý kiến của ông về ông Diệm sẽ có một số người phản đối, thậm chí
coi ông Diệm là thứ độc tài ác ôn, gia đình trị, ba đời Gia tô bán nước, làm
tay sai cho giặc?
VP: Chính vì còn có
những người nghĩ như thế nên mới có vấn đề cần giải trừ những huyền thoại và
những sự thật về con người ấy. Với lại không ai cấm họ nói viết ra như thế, với
điều kiện họ đưa ra được bằng cớ khả tín. Vâng, vấn đề là nói sao cũng được,
miễn là có bằng cớ khả tín.
NVL: Nói chuyện
bằng cớ, thưa ông, đã có lần ông chủ bút báo ĐT gửi cho tôi một bức hình gia
đình ông Diệm và hỏi xem tôi nghĩ gì? Hình ảnh một già đình quan lại thuộc hàng
Thượng thư triều đình ba đời làm tay sai cho Pháp mà như thế sao?
Gia đình ông quan Triều Nguyễn (từ
trái):
Con gái lớn Ngô Thị Giao, bà Ngô Đình
Khả bế con gái nhỏ Ngô Thị Hiệp, ông Ngô đình Khả, các con trai: Ngô Đinh Thục,
Ngô Đình Diệm (4 tuổi), và Ngô Đình Khôi (Ảnh circa 1905)
Nguồn: Vĩnh Phúc
VP: Vâng, bức hình
mà ông nói chính là bức hình thứ nhất ở trang 305 trong sách của tôi, do cựu
trung úy Nguyễn Minh Bảo lấy được trong phòng ông Diệm trong cuộc đảo chính
1/11/63. Theo tôi, bức hình nói lên tất cả. Trông rõ cái cảnh nghèo khó, thanh
bạch của gia đình ông ấy. Ông Diệm, ông Thục đi chân đất, quần áo nhếch nhác
lôi thôi như bất cứ một gia đình nông dân nghèo túng nào.
Nhưng ông nói thật hay
nói đùa đấy? Lấy đâu ra ba đời làm tay sai cho Pháp, mà ông
Diệm làm tay sai cho Pháp hồi nào?
NVL: Có thể là tại
vì ông Diệm có lý tưởng và nhờ ông sống độc thân, không bị ràng buộc vào gia
đình nên ông mới hết lòng với dân, với nước?
VP: Có thể lắm và
chắc cũng không thể không nghĩ tới điều đó. Có vợ con thì nó khác.
NVL: Ông có nghĩ
rằng khi đọc sách của ông, sẽ có người nghĩ rằng, ôi cha Vĩnh Phúc này là tên
Bắc kỳ, công giáo di cư, Hố Nai?
VP: Cười. Cứ để họ
hiểu lầm. Người như ông Diệm còn không thiếu kẻ hiểu lầm, thì phần tôi có nghĩa
lý gì.
NVL: Phần tôi, tôi
đặc biệt chú trọng đoạn Lê Châu Lộc, tùy viên của ông Diệm kể buổi sáng hôm ấy
ông Diệm phải tiếp kiến đô đốc Felt tại Đàlạt. Ông có nhận xét gì về buổi gặp
gỡ lịch sử này?
Đô đốc Harry Donald Felt, (1902—1992),
Chỉ huy trưởng Hạm đội Thái Bình Dương từ 1958-1964, có ảnh hưởng sâu sắc đến
hướng đi của chính sách Hoa Kỳ trong vùng
Nguồn: arlingtoncemetery.net
Nguồn: arlingtoncemetery.net
VP: Ông tinh ý lắm,
nêu dẫn đoạn ông Diệm gặp đô đốc Felt là điểm thắt nút mối bang giao hợp tác
giữa chính phủ Mỹ và ông Diệm trong suốt 9 năm. Buổi sáng hôm ấy, ông Diệm nôn
nóng khác thường, tức giận đạp đổ ghế vì sĩ quan tùy viên tới chậm. Cái
tức giận tùy viên chỉ là cái cớ thôi. Cái chính là lá bài sắp lật ngửa. Và
tôi nghĩ rằng: Ván bài lương tâm và trả giá giữa người Mỹ và ông Diệm nằm ở
buổi tiếp kiến hôm đó trước khi ông Diệm bị thảm sát. Đó là bản chúc thư giã từ
sau 9 năm cầm quyền, một lần chót nói lên cái quan điểm khác biệt giữa người Mỹ
và ông Diệm. Những kẻ viết sử sau này thường bác bỏ luận cứ này để biện hộ cho
việc lật đổ ông ấy.
Không có người Mỹ,
cuộc đảo chánh đó không có cơ thành tựu.
VP: Vừa rồi, ông
đang hỏi tôi về con người ông Diệm. Tôi chưa nói hết, thì đấy, con người ấy có
thể khoan dung ngay cả đối với kẻ thù. Nhưng cũng con người đó có thể nóng như
lửa, mặt đỏ gay, hầm hầm, giộng ba toong thình thình trên sàn máy bay vì thấy
treo cờ Vatican, vứt hồ sơ vào mặt ông Nhu mà không cho tùy viên lượm lại.
Nhưng chỉ trong chốc lát, ông tổng thống nguôi giận.
Nhưng ngược lại, ông
lại tỏ ra rất bình tĩnh khi dinh độc lập bị ném bom. Lê Châu Lộc nhận thấy ông
Diệm vẫn ngồi đọc sách một cách bình thản hỏi:
- “Cái chi đó?”
- “ Dạ người ta bỏ bom
mình”.
- “ Thế à, mà ai bỏ
bom vậy?”
Theo Lê Châu Lộc, làm
tùy viên cho ông Diệm là khổ lắm. Theo ông đi kinh lý tối ngày, bất kể thì giờ,
bất kể ngày đêm. Bằng máy bay, bằng trực thăng, bằng xe, bằng xuồng, “thăm dân
cho biết sự tình”. Có lần phải kê ghế bố mà ngủ trong khi bên dưới lõng bõng
nước. Những chuyến đi vất vả và nguy hiểm như thế cũng không làm ông Tổng Thống
nản lòng, vì ông muốn đến tận nơi hẻo lánh nhất, hoàn cảnh khó khăn nhất để đem
lại nguồn an ủi cho binh sĩ.
Thử hỏi sau này có anh
lãnh đạo nào làm được như thế không?
NVL: Tôi cũng nghĩ
như vậy. Có ông lãnh đạo nào bỏ ra vài lần thăm dân, thăm trường học trong suốt
những năm về sau này? Chữ kinh lý, tôi nghĩ là chữ đặc quyền dùng cho ông Diệm.
Sau này chữ đó không còn có trong tự điển nữa. Vậy mà thời ông Diệm, ciné chỉ
chiếu những chuyện gì đâu.
VP: Ông nhắc tôi mới
nhớ. Tôi còn nhớ hồi đó, ciné hát xong bài chào cờ là hát bài suy tôn Ngô Thổng
thống. Đáng nhẽ phải bỏ tù cái thằng cha nào đã nghĩ ra cái bài hát thối
tha: Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống.(1) Bài
đó giết ông Diệm từng ngày, từng giờ không cần gươm giáo đấy. Vứt bài hát đó
vào sọt rác và chiếu lên hình ảnh ông Tổng Thống đi bốt, lội bùn, sắn quần lên
tới đầu gối thì còn gì đẹp bằng nữa?(2)
NVL: Vâng, quả
đúng như vậy.
VP: Nay thì đến lúc
tôi hỏi ngược lại ông: Đọc lần tái bản này ông thấy thế nào ?
NVL: Phải nói bản
cũ, tôi đọc nhiều lần, mỗi lần muốn viết điều gì về chế độ Ngô Đình Diệm. Tôi
đều dở ra tham khảo. Nhưng chê trước đã. Thật ra, không phải chê mà ấm ức.
Thứ nhất, cuốn sách
không có cái nhìn tổng thể lớp lang về chế độ ấy. Nó thiếu văn mạch của những
chuỗi sự kiện nối tiếp nhau. Nó nêu ra đó rồi để cho độc giả tùy ý chọn lựa
thái độ. Quả là có rộng lượng và tôn trọng độc giả. Sự kiện từng mảnh của chế
độ ấy như chính ông nói với tôi, như đống gạch. Có viên lành lặn, viên vỡ. Rồi
ông bày hàng ra, ông đẩy cái trách nhiệm đánh giá cho các nhà sử học, cho người
đọc. Mà như chúng ta biết đấy. Nhà sử học nào đã làm được công việc ấy? Trong
khi đó, đáng nhẽ là trách nhiệm của ông phải làm?
Thứ hai, về phương
pháp làm việc, ông đã chọn cách viết chỉ dựa trên nhân chứng, một thứ Oral
History, rất khả tín, thời thượng. Phải chăng, đó là lối làm việc theo thói
quen từ BBC của ông? Nhưng lối viết nêu dẫn nhân chứng lại rất áp đảo, trấn áp
người đọc. Chẳng hạn khi chính Lê Châu Lộc nói rằng, ông Diệm nghe tin phi công
Phạm Phú Quốc ở trong tù bị bọn công an hành hạ đến nơi đến chốn. Ông Diệm
không an tâm sai Lê Châu Lộc đến nhà giam xem thử. Lê Châu Lộc bằt Phạm Phú
Quốc dơ tay cho xem có bị thương tích không. Không có. Chỉ nêu sự việc: Một
người đã ném bom tính giết mình, đã không bị đưa ra tòa, không bị cho đi mò tôm
là may, lại còn thăm hỏi. Chuỗi sự kiện đó dẫn đưa tới việc phải thừa nhận: Ông
Diệm là người tốt. Không lạ gì, sau đó, Phạm Phú Quốc đã viết thư xin lỗi ông
Diệm.
Tôi chỉ nói, lối viết
đó có tác dụng thuyết phục, vì nó vượt lý luận, bịt miệng những ai muốn nói
khác, muốn bôi nhọ.
Ở trên, tôi nói ấm ức,
vì ông không sử dụng tài liệu. Ông cũng đã nêu ra những lý do khi ông cho rằng
những hồi ký, những sách viết về chế độ ấy do các nhà văn, nhà chính trị, nhà
báo viết bố láo, bố lếu, bóp méo lịch sử cho dù dùng tài liệu ngoại quốc viết
cũng tào lao, rất là bôi bác. Nói chung là như thế.
Nhưng này, ông chê
người ta viết bố láo, bố lếu. Vậy có thể nào ông cho biết đích danh một tác giả
hay một cuốn sách viết bôi bảc?
VP: Cái này thì xin
ông tha cho. Tôi chỉ nói được là nhiều lắm, tôi tránh nói ra. Độc giả đọc họ là
biết rồi. Sau khi anh em ông Diệm bị giết, nhiều người đã viết quá sai sự thật
chỉ nhằm mục đích câu độc giả. Sau 1975, cũng thế. Ngay cả những bầy tôi, sau
này viết về chủ mình, cũng phản bội, viết bôi bác, nói trắng ra đen. Theo tôi,
viết như thế không xứng đáng một người cầm bút.
Chính vì vậy, tôi chọn
lựa không sử dụng tài liệu của bất cứ ai.
NVL: Chọn lựa như
thế, đúng ra là chọn lựa tư cách là một nhà báo hay nhà sử?
VP: Nhà báo thì cung cấp thông tin, dữ kiện. Còn nhà sử cung cấp kiến thức. Nói như thế thì ông biết tôi là nhà gì rồi?
VP: Nhà báo thì cung cấp thông tin, dữ kiện. Còn nhà sử cung cấp kiến thức. Nói như thế thì ông biết tôi là nhà gì rồi?
NVL: Cũng đúng,
nhưng tôi xin bổ túc, Trần Trọng Kim kiến thức sử đâu có bao nhiêu, nhưng sự
trung thực thì lồng lộng mà kẻ hậu bối chỉ biết cúi đầu khâm phục.
VP: Tôi cũng không
nghĩ gi khác ông. Chúng ta cùng nói chung một thứ ngôn ngữ: Sự can đảm và lòng
trung thực. Đó là những đức tính cần có của một người cầm bút.
NVL: Khi ông dùng
chữ bày tôi viết về chủ mình thì gián tiếp người đọc như tôi cũng hiểu bầy tôi
là ai rồi ?
VP: Ấy chớ, xin ông
đừng diễn dịch xa quá.
NVL: Trong biến cố
Phật giáo, mặc dầu ông đã cố gắng phỏng vấn một số người như cụ Quách Tòng Đức,
TT Thích Tâm Châu và ngay cả ông Đặng Sỹ v.v... Phần trả lời của TT Tâm Châu
chưa đầy đủ lắm. Phải nói về vai trò của TT ấy như thế nào, vai trò của TT Trí
Quang có tính cách quyết định về đường lối đâu tranh chống chính quyền? Nguyên
đo đưa đến sự đổ vỡ đến tách ra thành hai khối Phật giáo? Phần ông Đặng Sỹ thì
tránh né trả lời. Chính tôi cũng liên lạc với ông được hai lần, nhưng ông cứ
khất lần. Rất tiếc nay người nhà ông báo cho tôi biết ông mới qua đời. Thế là
một dấu mốc lịch sử bị đứt quãng. Nhưng tôi vẫn thấy còn cần đào sâu thêm nữa
để có thể khai thông một số vấn đề chưa sáng tỏ như vụ nổ đài phát thanh Huế
v.v... Những người như đại úy Minh, văn phòng cố vấn chỉ đạo của ông Cẩn có thể
đóng góp cho rõ thêm vai trò ông Cẩn và đặc biệt TT Trí Quang, sau 1975, ông
rút vào bóng tối một cách khó hiểu như có điều gì không tiện nói. Im lặng ở đây
là vàng. Ông cần lên tiếng và nên lên tiếng. Ông nghĩ thế nào về vấn đề này?
VP: Thật ra những
người như ông Ngô Đình Nhu đáng nhẽ phải để lại những Mémoires thì đỡ cho chúng
ta biết bao nhiêu. Hình như các người làm chính trị ở Việt Nam không có thói
quen viết nhật ký. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp TT Thích Trí Quang nhưng quá khó
gặp. Cả TT Hộ Giác một khuôn mặt đấu tranh nổi bật thời đó hiện còn sống ở Mỹ,
tôi cũng cố tìm cách tiếp xúc nhiều lần mà không được. Tôi sẽ đặc biệt lưu tâm
đến trường hợp này trong lần tái bản sau.
NVL: Tôi xin góp ý
thêm về vấn đề tài liệu. Tôi được biết là TT Trí Quang có viết về biến cố Phật
giáo 63, gần như không phổ biến. Cho dù có được phổ biến, với lối viết Oral
History của ông, dĩ nhiên ông sẽ không xử dụng. Thật tiếc. Cũng vậy, tôi thấy
có những tài liệu từ phía cộng sản như của cán bộ Cộng sản Mười Hương chẳng
hạn. Rất là hữu dụng, một cái nhìn từ phía bên kia, đưa ra một quan điểm đánh
giá hoàn toàn trái ngược với phía VNCH. Mười Hương viết về thân phận những cán
bộ nằm vùng bị chính quyền VNCH bắt, sau 1975 lại bị cộng sản nghi ngờ không xử
dụng. Mười Hương đã nhận xét về kẻ thù số 1, không đợi trời chung là ông Ngô
Đình Cẩn như thế nào, trong đó đánh giá rất cao vai trò ông Cẩn trong việc tiễu
trừ cộng sản nằm vùng. Đọc Mười Hương để thấy rằng kể cả ông Diệm, ông Nhu cho
đến người dân miền Nam, nhất là miền Trung đã đánh giá quá thấp con người Ngô
Đình Cẩn.
Một cán bộ Cộng Sản
thứ gộc như Mười Hương đánh giá cao Ngô Đình Cẩn thì cũng là điều để chúng ta
suy nghĩ chứ. Cũng như luật sư Quan rất khinh ghét ông Cẩn, nhưng lúc biện hộ
cho Ngô Đình Cẩn, nhận ra con người ấy đáng nể, đáng kính, đáng thương và đã
khóc khi nghe Ngô Đình Cẩn bị lên án tử hình và đã viết hồi ký về vụ án này.(3)
Ông Cẩn không vô tích
sự đến như thế, ông không ngu dốt đến như thế. Cách hành xử của ông có thể do
lối dùng người không chính thống, không hành chánh, nhưng hiệu quả thì có. Miền
Trung yên áng một phần nhờ ông Cẩn. Quét sạch bọn Cộng Sản nằm vùng do một tay
ông. Đối với Phật giáo, thử hỏi ai là người bao che ông Thích Trí Quang, ai
tiến cử các TT Trí Quang, Thiện Minh gọi là “đồng chí” Trí Quang, Thiện Minh
như chính ông đã viết trong sách trang 76. Ai khuyến cáo các tướng vùng phải
giúp đỡ các khuôn hội Phật Giáo, ai giúp đỡ tiền bạc sửa chữa Từ Đàm, ai đã
ngăn chặn việc hạ cờ Phật giáo sau khi người dân Huế đã lỡ treo rồi mới có lệnh
nhắc nhở từ Saigon? Vâng, ai?
Trân Kim Tuyến (1925—1995), Cambridge,
UK, 2 tháng trước khi qua đời
Nguồn: Vĩnh Phúc
Nguồn: Vĩnh Phúc
Tôi phải nói rằng, Ngô
Đình Cẩn nhạy bén chính trị, dù ít học đã làm chính trị theo bản năng. Chưa
chắc gì ông đã thích Phật giáo, nhưng đã biết cách thức hành xử thế nào đối với
cái nôi Phật giáo miền Trung mà Thiên chúa giáo chỉ vỏn vẹn có 4%.
Vậy mà con người ấy
theo tôi đã bị đời khinh rẻ, bị oán hận, bị gán ghép nhiều thứ, bị chính những
người mà mình hết lòng giúp đỡ hận oán nhất.
Tôi thì không. Khẳng
định là không, vì hiểu một con người không hẳn là dễ.
Lịch sử còn đó để thấy
điều tôi nói cần được suy nghĩ lại. Có thể chính ông cũng không đồng ý, bởi vì
ông chỉ chú ý nhiều đến ông Diệm, ông Nhu, nhất là ông Tuyến.
Cười.
Dám ông cũng bất công
lắm.
Nay thì phải nói một
điều. Cuốn sách của ông viết, tất cả giá trị nó nằm trong tinh thần muốn tôn
trọng sự thật. Thấy trắng nói trắng, thấy đen nói đen. Đọc là thấy. Nhiều lần
trong lúc nói chuyện, ông cũng nhấn mạnh tới điều này và chỉ điều này thôi. Như
trong lời mở đầu, ông tặng vợ con và không quên tặng những người yêu sự thật.
Hy vọng là tôi có
trong số những người ấy.
Cùng cười.
Nay cuộc đàm đạo giữa
tôi và ông có thể hướng vào nhân vật chính của cuốn sách: Con người ông Diệm
với tất cả cái xấu, cái tốt, cái bất cập, cái sai trái khuyết điểm, cái bị vu
oan, cái bị người đời oán ghét, nguyền rủa.
Theo ông, ông nghĩ gì
về ông Diệm?
VP: Trước hết, mình
không phải là người ở cạnh ông Diệm để có thể đưa ra những nhận xét trực tiếp
về ông ấy. Nhưng qua những người đã từng sát cánh với ông Diệm thì phải nhìn
nhận như sau:
Ông Diệm là một người
đạo đức, sống như một nhà tu hành, không có tham vọng vật chất và thật sự có
lòng yêu nước, thương dân. Ông tự tin vào lương tâm trong sáng của mình nên
muốn bắt mọi người phải nghe theo. Cứ như Lê Châu Lộc, tùy viên của ông Diệm kể
lại thì hằng ngày, ông xem lễ vào sáng sớm. Nếu không có lễ thì cầu nguyện. Ông
quỳ gối giang hai tay ra, cầu nguyện. Sau đó, tắm rửa, thay đồ, rồi làm việc.
NVL: Thế thì đi tu
cho rồi
VP: Xưa nay người ta
chỉ làm được một việc nếu muốn giỏi. Không thể vừa đi tu vừa làm chính trị.
Được việc này thì hỏng việc kia. Làm chính trị, mà đạo đức như nhà tu, không
biết lừa lọc tráo trở thủ đoạn nên mới bị phản và mất mạng. Nhưng cũng phải nói
anh em ông Diệm có óc “tỵ quyền”, nghĩa là bảo vệ quyền thế của mình.
Những Bùi Văn Thinh,
Lê Quang Luật, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Lý… đều không được dùng chỉ vì tỏ ra
nổi quá. Năm 1996, ông Như Phong kể lại với tôi rằng, ông Lê Quang Luật đã đưa
ra nhận xét: “anh em nhà ấy họ chỉ nghĩ tới họ trước.” Rồi nặng
tình họ hàng quá. Thấy anh em làm bậy mà không dám ngăn cản vì quá nể nang. Ví
dụ để cho ông Cẩn, bà Nhu lộng hành. Để ông Thục tổ chức lễ Ngân khánh linh
đình, với ông Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ làm chủ tịch ban tổ chức…
Riêng về buổi lễ tổ
chức mừng Ngân khánh Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, tôi xin nói rõ thêm.
Có một chi tiết về ông
Ngô Đình Nhu, xin nói ra đây. Thứ nhất, tôi được nghe kể lại từ một người bạn
dạy đại học Huế cho biết rằng, theo cha Luận kể lại, khi được biết có việc tổ
chức lễ ngân khánh ông Ngô Đình Thục. Ông Nhu rất khó chịu và không dám nói
thẳng ra, ông bèn kêu Linh Mục Cao Văn Luận, viện trưởng viện đại học Huế vào
Sàigòn gấp. LM Luận vội vào và không biết có chuyện gì. Ông Nhu cho cha Luận
hay nhờ cha Luận, nói với Đức cha hủy bỏ việc tổ chức lễ ngân khánh, hoặc làm
một cách khiêm tốn, nho nhỏ thôi. Dĩ nhiên chẳng ai nghe và bọn bầy tôi đã tổ
chức rềnh rang buổi lễ ấy đến chướng mắt mọi người. Những kẻ nịnh thần chính là
những kẻ giết chết gia đình họ Ngô. Ông Nhu là người chống giáo trị —
anti–clérical — theo nghĩa đạo ra đạo, đời ra đời tách biệt nhau. Nhưng mình
ông làm được gì?
NVL: Theo tôi thì
chế độ Ngô Đình Diệm bị rất nhiều người thù hận. Sau cái chết của họ và cho đến
bây giờ, qua sách vở, qua những hồi ký, qua những tiếp xúc với giới Phật tử.
Xin lỗi ông nhé — hình như sự oán hận đó vẫn còn. Theo ông, điều gì đã làm cho
người ta oán hận đến như thế và về phần những người như ông Diệm, ông đối xử ra
sao với Phật giáo? Có chính sách tiêu diệt người Phật giáo hay không? Có những
sách vở tài liệu đưa ra con số 300 ngàn người bị tù đầy hoặc bị ám hại?
VP: Người nào đưa ra
con số 300 ngàn người thì cứ đưa ra bằng cớ, nhưng người ở đâu mà lắm thế?
Người nào còn nghi ngờ, xin làm ơn cho biết có bao nhiêu, mấy trăm, mấy ngàn?
Có những trường hợp cấp dưới nó làm mà ông Tổng Thống, ông Nhu có thể không
biết, xin cũng cứ nêu ra, cụ thể là những nhân vật đối lập như ông A hay ông B,
v.v…
Riêng tôi, với tư cách
người cầm bút, tôn trọng sự thật, tôi biết có những người chủ tâm ám sát ông
Diệm như cụ Hà Thúc Ký, phi công Phạm Phú Quốc và tên Cộng Sản Hà Minh Trí. Vậy
mà họ được đối xử đàng hoàng. Ngay ở các nước dân chủ Tây Phương, tội ám sát
người sẽ bị xử ra sao? Nhất là ám sát một Tổng thống?
Hà Minh Trí ám sát hụt
ông Diệm ở Ban Mê Thuột, chỉ bị tù, sau 1975 được thả. Một mật vụ thời ấy cho
tôi biết họ đề nghị đẩy tên Hà Minh Trí từ trên lầu xuống cho chết, rồi bảo là
là tai nạn. Ông Nhu không cho, bảo cứ giam lại.
Cụ Hà Thúc Ký, nay ở
bang Maryland. Chính tôi đã phỏng vấn cụ và cụ cười kể rằng: “Hồi
xưa tôi định ám sát ông Diệm. Nhà tôi ở đường Công Lý, gần trường Quốc Anh, tôi
chủ tâm đào một đường hầm ra đến đường Công Lý, cách khoảng 50 thước và chôn 20
kg chất nổ rồi chờ xe ông Diệm đi qua, sẽ giật mìn để ám sát ông Diệm”.
Tôi hỏi rằng khi
cụ bị bắt họ đối xử ra sao. Cụ trả lời:
Lạ nhất là không bao
giờ họ đánh đập.Tôi lúc nào cũng nghĩ rằng hễ bị ông Diệm bắt là bị giết liền
chứ không thể sống được, vì tôi làm cho ổng mệt lắm.
Còn ông Phạm Phú Quốc
thì theo lời tôi phỏng vấn ông Lê Châu Lộc, ông cho biết như sau. Một đêm Tổng
Thống Diệm gọi Lê Châu Lộc hỏi:.
-“Anh có nghe cái
đó không?” (Nghe Quốc bị tra tấn dã man không).
– Dạ không
– Thấy báo cáo vậy.
Xuống thăm nó nghe. Coi có vậy không, về cho tôi biết.
Lê Châu Lộc đi gặp
Phạm Phú Quốc theo lệnh Tổng Thống:
– Tổng thống sai tôi
tới, hỏi xem anh có bị hành hạ không .
– Không có.
– Anh dơ tay tôi coi,
anh có bị rút móng tay không?
– Không, nhưng tôi có
viết một lá thư, nhờ anh đem về được không?
– Tôi không có nhiệm
vụ đó. Anh để mấy người điều tra họ lo chuyện đó.
Cũng theo Lê Châu Lộc,
chính ông Võ Văn Hải là người đưa ông Nguyễn Chánh Thi ra máy bay để trốn sang
Nam vang. Nếu không có lệnh của ông Diệm, liệu ông Hải có dám làm chuyện này
không?
NVL: Nhưng còn
những trường hợp các ông Tạ Chí Diệp, Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, Vũ Tam Anh
thì sao? Họ bị giết, bị thủ tiêu ?
VP: Phải nhìn nhận,
đây là vết đen của chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Hà Thúc Ký kể rằng đảng viên Đại
Việt bị tra tấn hay bị thủ tiêu. Nhưng cần lưu ý là những vụ này đều xảy ra vào
cuối triều Ngô Đình Diệm, năm 1963, lúc mà ông Tuyến đã bị cho ra rìa và do đó
đám mật vụ công an lộng hành dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Y, Tổng giám đốc Cảnh
sát Công an, và Nguyễn Văn Hay, Dương Văn Hiếu làm phó tổng giám đốc. Theo ông
Cao Xuân Vỹ , ông có hỏi Đại tá Nguyễn Văn Hay khi ông này vào trình hồ sơ cho
ông Diệm. Ông Diệm phê: “Thanh toán cho xong.”
Tụi bộ hạ là Khưu Văn
Hai và đàn em hiểu thanh toán là đem giết”. Thế là Nguyễn Bảo Toàn
và Tạ Chí Diệp bị giết oan. Còn Hồ Hán Sơn thì Trần Kim Tuyến cho là các phe
của Cao Đài diệt nhau. Ông Cao Xuân Vỹ cũng có lần hỏi thẳng ông Ngô Đình Nhu
về vụ Tạ Chí Diệp, ông Nhu bảo Accident.
NVL: Xin ngắt lời
ông một chút. Tôi nhận thấy chế độ hành chánh thời ông Diệm quá tập trung về
dinh Độc Lập. Chẳng hạn một chuyện treo cờ Phật giáo cũng phải trình TT, đáng
lẽ tỉnh trưởng phải lo chuyện này. Nhất nhất chuyện gì từ tướng vùng đến các bộ
trưởng đều đợi lệnh TT. Ông Nhu trở thành thứ Thủ tướng bất đắc dĩ.
VP: Nhận xét của
ông, nhiều người cũng nghĩ như thế.
NVL: Lại còn những
tiếng đồn về lãnh chúa miền Trung với những vụ thủ tiêu người nữa.
VP: Cái này tôi chỉ
có thể viết lại theo lời cụ Võ Như Nguyện thôi. Theo cụ Nguyện, ông Cẩn là
người có máu tham lam, tham nhỏ thì rồi đến lúc tham lớn. Chẳng hạn như việc
mua lại khách sạn Morin? Mua bằng gì? Khách sạn này do ông Nguyễn Văn Yến làm
chủ. Ông bị bắt giam đến nỗi chết trong tù. Phần tôi – Vĩnh Phúc – vẫn còn thắc
mắc là có phải ông Yến chết là do mật vụ ông Cẩn đánh cho chết không? Rồi đến
nhà thầu khoán Phương cũng bị chết. Tiền đâu mà ông Cẩn mua khách sạn Thuận
Hóa? Chủ Hotel Embassy trong Sài Gòn để tên Lê Văn Hiệp. Cái Hotel Maxim ở
Paris cũng để tên Lê Văn Hiệp nhưng thực sự là của ông. Còn đất đai ngoài miền
Trung thì để tên Lê Trọng Quát.
Phụ Chú:
(1) Dưới thời Bộ trưởng thông tin Trần
Chánh Thành, ông đã phát động sự hình thành Phong trào Cách Mạng Quốc Gia, đồng
thời cho phổ biến bài hát trên trong các rạp ciné. Thoạt tiên là bài Quốc ca,
tiếp đến là bài suy tôn Ngô tổng thống. Năm 1975, ông Thành tự tử bằng cách
uống thuốc độc chết tại nhà.
Trích Lâm Lễ
Trinh, 9 năm bên cạnh TT Ngô Đình Diệm.
Nguyễn Ngọc Bích và Trần Đại Việt, tác
giả bài “Suy tôn Ngô Tổng Thống”
Nguồn: vi.wikipedia.org
Nguồn: vi.wikipedia.org
(2) Tác giả bài Suy tôn Ngô
tổng thống là nhà văn Thanh Nam (Trần Đại Việt, 1931-1985) và
nhạc sĩ Ngọc Bích (Nguyễn Ngọc Bích, 1924-2001). Khi Ngô Đình Diệm đòi
phế truất Bảo Đại, cũng như đa số những thanh niên có cảm tình với Ngô Đình
Diệm, Ngoc Bích soạn bài Vè Bảo Đại. Sau khi Ngô Định Diệm thành
công làm tổng thống, Ngọc Bích cùng nhà văn Thanh Nam, có sửa lại lời bài Vè
Bảo Đại và trở thành bài Suy tôn Ngô Tổng Thống. Cũng cần đặt bài
hát vào bối cảnh thời đó. Thời cực thịnh của chế độ nên có bài hát đó không cói
gì là lạ. Nhưng cứ hát mãi đâm nhàn chán, khôi hài. Nguồn:
vi.wikipedia.org
(3) Dư Văn Chất
viết cuốn sách “Người chân chính” hay Bản kiến nghị “Bội
phản hay chân chính”. Trong sách, Chất nói rằng Đoàn công tác đặc biệt miền
Trung của ông Cẩn họat động rất hữu hiệu ở miền Trung và cả Sài gòn. Ông Cẩn đã
phá tan màng lưới gián điệp của Cộng Sản Hànội. Ở miền Trung, cán bộ nào còn
sống sót, phải rút vào rừng, lên núi. Miền Trung, CS bị xóa trắng. Họ rất nể
phục ông Cẩn. Bị bắt được đối xử tử tế, không bị giam, được di lại thoải mái,
ngay cả đi dạo phố Sài gòn. Bố bảo cũng không dám trốn, sợ bị theo dõi. Nhiều
người Hồi chánh. Nhiều cán bộ CS đựợc dùng nếu họ muốn. Họ chỉ có hai con
đường: sống hoặc chết. Tiếng cậu Cẩn ác ôn cứ thế đồn ra. Lãnh Chúa miền Trung.
Họ xác nhận đã bị ĐCTĐBMT của ông Cẩn mua chuộc. Sau 1963, kẻ nào còn bị giam
được thả ra. Họ hoạt động trở lại. Thả hổ về rừng. Sau này Lê Đức Thọ xếp họ
vào loại có vấn đề, nghi ngờ họ đã đầu hàng VNCH, không dùng. Đám này sinh bất
mãn, viết kiến nghị gửi bộ chính trị.
NVL: Trong
vụ xử Phan Quang Đông ngày 26/3/64, tòa án cách mạng họp ở Huế đã xét xử Phan
Quang Đông về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền bạc và lũng
đoạn kinh tế. Các tội đó liên hệ đến 19 nạn nhân từ 26/10/55 – 1/11/63. Vào Năm
1963, gia đình ông Yến đã đệ đơn TT Diệm cứu xét. Ông Diệm giao cho ông Đỗ Mậu,
cục trưởng an ninh quân đội. Ông này sợ liên lụy lại trao cho đại úy Phạm Bá
Thích ở Huế. Cuộc điều tra kết quả ra sao thì không ai được biết. Nhưng chắc
chắn đã đưa đến cái chết của Phan Quang Đông. Ở Sàigòn thì vào ngày 25/6/64,
Dương Văn Hiếu, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Thái bị kết án khổ sai chung
thân và Phan Khanh 10 năm khổ sai.
VP: Người ta bảo
Phan Quang Đông phải chết, cũng như Đặng Sỹ phải lãnh án tù, vì các tướng đảo
chính muốn làm vừa lòng một số nhà lãnh đạo Phật giáo quá khích.
NVL: Đây là câu
hỏi mấu chốt, câu hỏi có thể còn gây tranh luận, là đầu mối cho việc lật đổ ông
Diệm hay ít ra là cái cớ cho việc lật đổ ông: ông Diệm, ông Nhu có kỳ
thị Phật giáo hay không?
VP: Câu hỏi coi vậy
không khó để trả lời. Nếu tôi làm chính trị thì ngay cho dù tôi có đố kỵ với
Phật giáo, tôi vẫn tỏ ra thân thiện với Phật giáo. Ông Diệm, ông Nhu đủ khôn
ngoan để làm việc đó. Vấn đề là cấp dưới như tỉnh trưởng, quận trưởng làm bậy
mà ông Tổng thống không thể kiểm soát hết được, theo như nhận xét của Hòa
thượng Thích Tâm Châu. Nhưng, Ông Diệm không phải là loại người đóng kịch giỏi
đến như thế?
NVL: Đóng kịch hay
chắc phải dành cho ông Nguyễn Khánh, Trần Văn Đôn?
VP: Không, ông Hồ
đóng hay hơn chứ. Khánh, Đôn sao bì được. Khánh phải gọi là diễu dở.
Theo lời kể của Lê
Châu Lộc, chính TT Quảng Liên, Hiệu trưởng trường Bồ Đề gần chợ Cầu Muối đã
được ông Diệm cho xuất ngoại du học, và chính ông Diệm đã tặng Đức Đạt Lai Lạt
Ma 10 ngàn đô-la để giúp người tỵ nạn Tây Tạng.
Phần cụ Võ Như Nguyện,
lúc còn làm Chủ tịch Uỷ ban Nội vụ Quốc Hội, đã đưa các TT Trí Thủ, Thiện Minh,
Trí Quang vào gặp Tổng thống Diệm để xin đổi tên Hội Phật giáo Thừa Thiên thành
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngày hôm sau ông Diệm ký liền.
Còn chuyện này không
kém quan trọng. Xưa nay, người ta thường bảo các ông Diệm Nhu ra lệnh tấn công
chùa, gọi là kế hoạch “nước lũ”. Việc đem lực lượng cảnh sát tấn công chùa là
một quyết định vụng về của chế độ. Đã đành có nhiều tướng lãnh mà đứng đầu là
Tôn Thất Đính, đề nghị tấn công chùa. Nhưng trách nhiệm người lãnh đạo vẫn là
ông Tổng Thống. Sự sáng suốt, sự khôn ngoan của người lãnh đạo để đâu? Hay cũng
bảo rằng đằng sau chuyện này có bàn tay người Mỹ?
Tôi đã hỏi ba người, ở
3 tư thế khác nhau.
NVL: Xin cắt ngang
ông một lần nữa về cách thức của ông khi chọn người để phỏng vấn. Sự chọn lựa
có chủ đích của ông giúp nâng mức độ khả tín của cuốn sách. Ngoài ông Trần Kim
Tuyến là điều cần thiết cho sự hình thành cuốn sách này không tránh được. Những
tên tuổi khác đã không có mặt như Lâm Lễ Trinh, Đỗ Mậu là một sự không có mặt
có ý nghĩa?
Tuy nhiên, có một
người mà tôi nghĩ rằng nên được phỏng vấn lắm. Đó là cụ Đoàn Thêm. Tôi biết
chút ít về con người cụ Đoàn Thêm. Cụ là người làm việc bên cạnh ông Diệm,
nhưng không ưa tính nết ông Diệm, nếu không nói là ghét và đố kỵ. Nhưng qua
những ghi chép trong: “Việc Từng Ngày”, người ta thấy cụ nhận xét chi
li, tỉ mỉ và khá là công bằng đối với ông Diệm. Thật sự không
cần ca tụng hay nịnh ông Diệm như một số sách đã viết. Theo tôi, chỉ cần viết
công bằng, viết trung thực cũng đủ rồi. Rất tiếc là nay cụ Đoàn Thêm cũng đã
mất rồi.
VP: Cám ơn hảo ý của
ông trong những nhận xét về các nhân vật được phỏng vấn, ông đã nói trúng ý
tôi. Riêng cụ Đoàn Thêm tôi đã cố thử xin phỏng vấn nhưng khó lắm, vì cụ dè
dặt. Nay rất tiếc cụ đã qua đời. Bây giờ xin trưng dẫn ý kiến của ba người đó.
Ông Cao Xuân Vỹ: “Việc tấn công
chùa là do đề nghị của các tướng. Ông Nhu nói với tôi thế này: Phải giải quyết
vụ Phật giáo cho xong, không thì anh em binh sĩ ngoài tiền tuyến không an tâm.
Sau đó, tôi có hỏi các tướng, các ông chối hết. Nhưng mấy anh em ấy họp nói
rằng, chính Tôn Thất Đính chủ trì phiên họp. Nhưng đứng ra hành động là Lực
lượng đặc biệt và Cảnh sát.”
Ông Cao Xuân Vỹ cũng
có mặt ở chùa Xá Lợi, lúc chùa bị tấn công. Chắc hẳn những điều ông nói là
đúng.
Cụ Quách Tòng Đức: Có lẽ với vai
trò của cụ là Đổng lý văn phòng phủ Tổng thống, cụ cũng có thể biết được tường
tận vụ khủng hoảng Phật giáo. Nhà cụ lại ở ngay cạnh chùa Xá Lợi nên cũng thấy
cuộc tấn công chùa. Đây là những câu tôi hỏi cụ:
- “Có đàn áp Phật giáo
hay không?”
- “Không có đàn áp
Phật giáo. Chính phủ giúp xây chùa Xá Lợi và nhiều chùa khác. Ông Diệm vốn biết
nhược điểm của mình là người Thiên Chúa, ông cố giữ quân bình.”
- “Ai ra lệnh tấn công
chùa?”
- “Lúc đó ra lệnh
miệng thôi à. Tấn công chùa là Cảnh sát, không phải quân đội. Tôi ở ngay bên,
các chùa cũng để loa rầm rộ lắm. Nghe họ hô những khẩu hiệu ghê lắm. Xem thường
chính phủ lắm.”
- “Có vài tướng đề
nghị đánh chùa?”
- “Chắc là các tướng
như tướng Đính có ý kiến đánh vào các chùa. Tôi thấy khi có vụ Phật giáo rồi,
cụ Diệm buồn. Tôi đoán thấy ông hơi chán nản. Phật giáo làm quá rồi, ổng không
muốn làm việc nữa. Một số công việc tôi trình lên. Ổng nói đưa cho ông Nhu. Tôi
không thấy ông Nhu có tham vọng thay ông Diệm. Không thấy gì”.
Hòa Thượng
Tâm Châu: Theo Ông Cao Xuân Vỹ: “Ông Tâm Châu không biết gì cả, vừa là
nạn nhân, vừa là anh hùng.” Tôi đã hỏi Hòa thượng Tâm Châu như sau:
– Theo Hòa Thượng,
Tổng thống Diệm và ông Nhu có kỳ thị Phật giáo không?
– Thực ra đối với TT
Diệm khi đó tôi có gặp thì biết. Ngài là người nho học. Ngài có tinh thần dân
chủ hơn. Còn vấn đề kỳ thị, thì tôi không dám nói có hay không có. Chắc chắn
thì tôi nói thẳng thắn ở cấp trên thì đương nhiên hiểu biết rộng hơn cấp thừa
hành dưới, hoặc là chẳng hạn bị ảnh hưởng của Tổng giám mục Ngô Đình Thục là
người vẫn muốn làm sao tôn giáo mình phát triển, nên tìm phương thức... Có thể
người dưới làm những cái nó sinh ra chuyện không tốt. Tôi tin tưởng là cấp trên
không đến nỗi nào.
– Hồi đó sự phát triển
Phật giáo nói chung, mà điển hình là sự phát triển các chùa chiền, có gì trở
ngại không?
– Thực ra không có gì
trở ngại. Nó chỉ có vấn đề trong sự bình thường chỗ nào làm chùa mà xin phép
thì được xét thôi. Chung chung không có gì cả.
– Không bị trở ngại?
– Chỗ nào thì tôi
không biết chứ trong Sàigòn thì tôi không thấy.Tôi thực sự không thấy.
– Hôm cảnh sát tấn
công chùa, Thầy đang ở đâu?
– Tôi đang ở chùa Xá
Lợi. Tôi cũng bị bắt, bị giam, nhưng không biết là giam ở đâu. Giam cho đến
ngày 2/11/1963 mới được về.
– Thầy có bị hành hung
không?
– Đánh đập thì không
có.
TT Thích Tâm Châu: không bao giờ
có người liên lạc với tôi,
tôi chống Cộng từ Bắc.
Nguồn: sc.groups.msn.com
Nguồn: sc.groups.msn.com
– Phong trào tranh đấu
Phật giáo có bị ảnh hưởng của Cộng Sản không?
– Dạ không. Không có.
Ở miền Trung thì tôi không biết, nhưng trong Nam thì tôi không thấy có vấn đề
Cộng sản. Về sau mới có chứ lúc ấy không có gì.
– Riêng thầy, Cộng sản
có cho người liên lạc không?
– Không bao giờ có người liên lạc với tôi,
tôi chống Cộng từ Bắc.
–
Thầy nghĩ sao về thầy Trí Quang? Người ta nói thầy Trí Quang
thiên Cộng?
— Tôi không được gặp
thầy Trí Quang nhiều. Ngài ở ngoài Trung. Chỉ nói thẳng thắn cái cao vọng của
cụ ấy nặng hơn, chứ còn Cộng sản thì không biết sao cả.
Cần nói thêm là ngoài
một số viên chức chính phủ làm bậy để lấy điểm, còn một số cha di cư lợi dụng
tên tuổi ông Diệm để trục lợi.
NVL: Có thể ông
cho biết một vài trường hợp cụ thể.
VP: Thì như ông Cha
Khai, đi đâu cũng lấy danh nghĩa người của Tổng Thống . Ông Diệm đã gọi vào và
từ đấy, ông không còn được héo lánh đến dinh Độc Lập như trước nữa.
NVL: Còn một người
nữa không thể không nói đến. Bà Ngô Đình Nhu. Nếu Thượng Tọa Trí Quang có thể
làm rung chuyển nước Mỹ thì Bà Nhu có thể làm lung lay chế độ? Ông đồng ý chứ?
VP: Đồng ý một nửa.
Câu hỏi của ông có tính gài bẫy, trả lời cũng chết, không trả lời cũng chết.
NVL: Tôi có cảm
tưởng ông có vẻ ghét, khinh thường bà Nhu về những ngôn ngữ, cử chỉ xấc xược
của bà ấy. Mặt khác, tôi lại có cảm tưởng ông biện hộ, bênh vực bà ấy. Chẳng
hạn, trong sách ông cố tình chứng minh rằng bà ấy không kinh tài, không tham
nhũng, hối lộ? Điều đó có mâu thuẫn không?
VP: Không có gì là
mâu thuẫn cả. Ghét là một chuyện. Ghét tính nết, không ưa. Nhưng ông cho phép
tôi dùng lại chữ của ông đã dùng, tôi phải công bằngvới bà ấy. Theo
tôi, bà là nạn nhân bị bôi nhọ một cách thô bỉ nhất thời ông Diệm.
NVL: Xin cho vài
tỉ dụ cụ thể.
VP: Nó hạ cấp đến
chả muốn nói ra đây như ghế khoái lạc, phòng bà Nhu bốn phía lắp gương, ngủ với
ông Diệm, giữa thanh thiên bạch nhật ngồi trên lòng ông Diệm, ỏn ẻn bá vai bá
cổ.
NVL: Tôi nghĩ
rằng, đối với Hà Nội khi họ bôi bẩn bà Nhu, nó không còn chỉ nhằm vào cá nhân
bà Nhu và chế độ ấy nữa, nó vượt lên trên những bôi nhọ cá nhân. Nó trở thành
chính sách, đường lối của nhà cầm quyền Hà Nội bấy giờ nhằm bôi xấu miền Nam.
Họ dùng những sách báo
bôi bẩn chế độ miền Nam để tuyên truyền chống lại miền Nam. Miền Nam đã để sơ
hở về điều này. Ở miền Nam thì Cộng sản khuynh đảo, thổi phồng bịa đặt để gây
rối loạn. Ở ngoài Bắc thì ngược lại bưng bít, ém nhẹm và xuyên tạc miền Nam.
Điều đó cho thấy Cộng
Sản chỉ có thể tồn tại bằng sự che đậy, gian trá và lừa đảo.
Đồng thời, nó cảnh báo chúng ta phải cảnh giác một số những cây viết ngoài
nước, một số diễn đàn điện tử đang tuyên truyền cổ võ làm tay sai cho Cộng Sản.
Tôi cũng xin được phép bạch hóa một vài tác giả mà ông vẫn muốn né tránh, không
tiện hài tên họ ra. Đã đến cái thời điểm phải đưa tên họ ra rồi. Đó là những
tác giả như ông Mặc Thu, Lê Trọng Văn (cán bộ Cộng Sản), Nguyễn Đắc Xuân (cán
bộ Cộng sản), Hoàng Trọng Miên. (Học giả thiệt trong việc đạo văn
cuốn sách của Nguyễn Đổng Chi ngoài Bắc vào năm 1955-1956)
VP: Trước đây, tôi
đã không thể nào mường tượng nổi ảnh hưởng tai hại của những cuốn sách do họ
viết. Bởi vì, miền Nam có tự do viết, ngay cả bôi nhọ. Người đọc tự mình phải
biết chọn lựa đọc và chọn thế đứng của mình.
Nhưng nay thì tôi đau
sót nhìn nhận rằng, ảnh hưởng đó xâm nhập vào tim óc, lục phủ ngũ tạng của một
số người một cách vô thức rồi. Chẳng hạn, sau biến cố 1/11/63, đợi đến năm
1964, chính quyền của mấy ông Tướng đã mang trưng bầy tại phòng Thông Tin Đô
Thành một chiếc ghế được mênh danh là Ghế Khoái Lạc, biểu tượng sự sạ
đọa của chính quyền Ngô Đình Diệm. Mà thực ra đó chỉ là cái ghế của
thợ uốn tóc, có thể bấm cho lên xuống, ngả ra, xoay qua xoay lại, mà bà Nhu cho
đem vào dinh Độc lập, vì bà không muốn ra ngoài làm tóc. Không biết khi bà Nhu
ngồi trên ghế đó thì có cảm giác khoái lạc nhưcó sóng trong bụng em không?
Và cũng không biết rằng có ai đó, một phụ nữ, bất kể là ai đã ngồi thử để biết
thực hư thế nào? “Ghế khoái lạc” thì có. Bà Nhu đã ngồi, đã “khoái lạc”. Chỉ
rất tiếc sau đó đã không ai ngồi thử để minh chứng cho lời cáo buộc bà Nhu là
sự thật?
NVL: Nhưng điều chắc
chắn là nó thỏa mãn và đem lại sảng khoái cho hàng ngàn, hàng vạn người đọc
cuốn sách Đệ Nhất phu nhân của Hoàng Trọng Miên mà trong thư viện Việt Nam chỗ
tôi ở cũng bày ra vài cuốn.
Đến lượt ông Nguyễn
Đắc Xuân viết một bài đăng trên Giao Điểm, theo ông Nguyễn Đắc Xuân, phái đoàn
sinh viên của ông được các sĩ quan hướng dẫn cho biết, muốn vào phòng bà Nhu
bắt buộc đi qua phòng ông Diệm. Ở đây ám chỉ sự thông đồng giữa bà Nhu và ông
Diệm. Trong phòng bà Nhu thì chung quanh đều có lát gương bốn phía và được giải
thích công dụng của chúng để làm gì? Một ám chỉ rất vô giáo dục?
Nguyễn Đắc Xuân, cán bộ cộng sản với
cái tâm lụi xụi
Nguồn: toquoc.gov.vn
Nguồn: toquoc.gov.vn
VP: Tôi nghĩ, một
cái dinh của một Tổng Thống không thể lụi xụi, phòng nọ sát phòng
kia như cái tâm lụi xụi của Nguyễn Đắc Xuân được. Không biết
dinh Gia Long thế nào, cho dù nó bằng nửa dinh Độc Lập đi, tôi xin mạn phép nói
về sự bài trí trong dinh Độc Lập để độc giả tiện so sánh.
Theo cụ Quách Tòng
Đức, dinh Độc Lập có hai tầng, tầng dưới có hai phòng khánh tiết tráng lệ và có
văn phòng cố vấn Ngô Đình Nhu, văn phòng Bộ trưởng phủ tổng thống, văn phòng
đổng lý, văn phòng Tổng thơ ký phủ tổng thống và nhân viên. Tầng trên chia ra
ba phần: phần giữa là hai phòng khánh tiết lớn, phía trái của hai phòng khánh
tiết dành làm văn phòng và phòng ngủ của tổng thống, rồi phòng sĩ quan tùy
viên. Phòng tổng thống Diệm trang trí sơ sài với cái giường nhỏ bằng gỗ, một
bàn tròn và ba ghế da. Nơi đây, ông Diệm thường dùng cơm và tiếp bộ trưởng,
tướng lãnh. Phía phải phòng khánh tiết là nơi cư ngụ của gia đình bà Nhu. Sự
bài trí như thế có quy củ, có sự trang trọng đúng cái protocole của
một dinh tổng thống. Có lẽ nào nó lùi xùi, lẹo tẹo, phòng bà Nhu dính sát phòng
ông Diệm?
Phải khinh mình và
khinh người đọc lắm mới dám viết như vậy.
Tôi nghĩ thêm rằng,
trong đám sinh viên hơn hai chục người còn lại, rất có thể có những người khác
đọc bài này sẽ không ngần ngại lên tiếng. Tôi hy vọng là như thế? Có gì ghê gớm
lắm đâu? Nếu quả thực bà Nhu là như thế thì bà chỉ là một thứ đàn bà dâm đãng?
Trong thiên hạ, thiếu gì những người đàn bà như thế? Nếu có cũng chỉ là chuyện
bình thường. Còn nếu quả thực bà không như thế thì những người còn có chút công
tâm cần trả lại danh dự cho bà. Vả lại, một người không cần thông minh cũng có
thể thấy rằng nếu là người dâm đãng thì bà Nhu phải tìm những người đàn ông
khoẻ mạnh, đẹp trai, có vô số trong hàng sĩ quan hay công chức cao cấp. Cớ gì
bà lại chọn ông anh chồng gần như một nhà tu, lùn tì, bụng phệ, buổi sáng chỉ
thích ăn điểm tâm cháo trắng với cá kho?
NVL: Việc ông
Nguyễn Đắc Xuân viết chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng nó trở thành đại sự khi mới đây,
tôi sửng sốt đến sợ hãi qua bài viết ngắn của ông Bùi Tín: Kết thúc cuộc đối
thoại vô bổ, đăng trên Talawas, ra ngày 3/1/2007 và lá thư của ông Nguyễn Trung
Lương, cũng trên Talawas, đề ngày 10/1/97.
Chỉ trong vài dòng của
ông Bùi Tín, tôi khám phá ra được sự tàn bạo, sự đê tiện, sự khốn nạn và bất
hạnh cho những ai phải sống trong chế độ Cộng sản. Ông Bùi Tín viết như thế
này: “Tôi đã tìm hiểu và suy nghĩ rất kỹ... Không có chuyện ông Diệm tằng
tịu với bà Lệ Xuân, ông Diệm không có vợ thật sự cũng không có con riêng, con
hoang ...”
VP: Theo tôi, phải
chăng kể từ cuối những năm 1950, ông Bùi Tín cũng như nhiều người khác ngoài
Bắc đều tin là thật chuyện hủ hóa của bà Nhu với ông Diệm? Và ông Bùi Tín phải
mất nhiều năm tháng, nhiều ám ảnh mới truy ra điều vu cáo ông Diệm là chuyện gian
dối? Thì ra, trong suốt những năm tháng ấy, ông tin chuyện ông Diệm tằng tịu
với bà em dâu là có thật?
NVL: Tôi tự hỏi đã
có bao nhiêu người được như ông Bùi Tín, còn biết tra vấn, cất công tìm hiểu và
sau đó có cái may mắn để truy tìm ra được sự thật? Trong khi đó, người trong
Nam chỉ coi truyện đó như loại chuyện tiếu lâm tào lao xích đế?
Phải chăng người dân
miền Bắc đã bị nhiễm độc, tuyên truyền đến nỗi có thể tin được một câu chuyện
như thế?
VP: Tôi có đọc lá
thư của ông Nguyễn Trung Lương gửi cho ông Bùi Tín. Ông Lương cho biết, vào
cuối những năm 50, khi còn ngồi ghế nhà trường Hà Nội, ông đã nghe và tin chắc
thế: Ông Diệm ngủ với bà Nhu. Ông Lương còn cho biết thêm Hoài
Thanh đã có lần tiết lộ bà Thụy An, dính líu đến Nhân Văn giai phẩm (NVGP),
thường ăn chơi với bọn trong Ủy Ban kiểm soát đình chiến như bọn Gia Nã Đại và
bọn NVGP đã dùng Thụy An làm Mỹ nhân kế với những văn nghệ sĩ trẻ dại dột như
Phùng Quán, Lê Đạt ... Hiện nay, ông Lê Đạt hay có mặt ở tòa báo Tia Sáng của
Văn Thành chắc có thể lên tiếng cải chính?
Câu chuyện về những hệ
thống tuyên truyền rỉ tai, đầu độc dư luân, ngụy tạo, chụp mũ, bôi bẩn của
chính quyền Cộng Sản còn tinh vi hơn thế nữa: đến cái độ mà người dân mất cảnh
giác đến không phân biệt đâu là thật, đâu là giả nữa
NVL: Nay đã đến
lúc chúng ta phải tạm ngưng hai buổi trọn mạn đàm với ông. Tôi phải thú thực là
trong suốt hai buổi mạn đàm đó, chúng ta có dịp trao đổi nhiều điều bổ ích. Còn
quá nhiều chi tiết mặc dầu tôi đã thu vào băng, tôi cũng không tiện ghi hết ra
đây. Có một số điều tôi đã ghi chú riêng về cảm tưởng của tôi về buổi mạn đàm
này, tôi đã nói ở phần đầu xin khai triển thêm, xin được thưa với ông:
Thái độ lương thiện
trí thức của một người cầm bút như ông với cuốn sách này: Cuốn Những
Huyền Thoại Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm sẽ giúp bạch hóa
một số điều đã bị ngộ nhận theo tin đồn hoặc theo những luận điệu bôi bẩn, chụp
mũ của một số người. Chẳng hạn hai ông Diệm Nhu không kỳ thị tôn giáo, không
đàn áp, giết, hay giam cầm hằng vạn người đối lập. Ông Nhu không hút thuốc
phiện. Ông Diệm không ăn cắp nghiên mực của vua Tự Đức theo lời tố cáo của
Nguyễn Đắc Xuân. Nhất là ông Diệm không có chính sách đàn áp, giết hại người
Phật Tử như biến cố Đài phát thanh. Và theo như lời nhận xét của ông
Tuyến: “Mọi chuyện diễn ra như một định mệnh đã được an bài”. Bà
Nhu không kinh tài, không có tiền gửi nhà băng trên thế giới. Ông Nhu cho đến
lúc chết, không ai có thể nói ông có đồng xu nào? Có ai có thể cho biết ông Nhu
có bao nhiêu tiền?
Cuốn sách của ông tóm
tắt lại bao gồm rất nhiều chữ KHÔNG. Mỗi trang sách là một chữ
không. Mỗi vấn đề được nêu ra là một chữ Không. Tôi chưa từng
đọc cuốn sách nào nhiều chữ không như thế. Lòng can đảm và sự trung thực. Đó là
hai giá trị tiêu biểu nhất của cuốn sách này. Cuốn sách của ông sau này sẽ là
tài liệu tham khảo cho bất cứ ai muốn biết một số sự thật và một số sự không
thật về chế Ngô Đình Diệm. Mong là cuốn sách sẽ được nhiều bạn đọc để biết sự
thật về chế độ Ngô Đình Diệm.
Đặc biệt nhất là giới
trẻ sau này.
Mộ Tướng Trình Minh Thế tại núi Bà Đen
(Tây Ninh)
trước khi bị csvn phá huỷ
Nguồn: Ảnh gia đình Trình Minh Sơn
Nguồn: Ảnh gia đình Trình Minh Sơn
Chỉ còn lại một vấn đề
tồn nghi: Về cái chết của Tướng Trình Minh Thế. Theo tôi thì có hai vấn đề: Vấn
đề thứ nhất là Tướng Trình Minh Thế bị giết hay bị ám sát? Vấn đề thứ hai là ai
là kẻ sát nhân hay ra là ra lệnh cho kẻ khác giết? Có hai giả thuyết:
– Vấn đề bị giết hay
ám sát: theo tôi, xác chết bao giờ cũng là nhân chứng cuối cùng và đáng tin cậy
nhất. Theo bà Kim, phu nhân tướng Thế thì đã có HAI viên đạn bắn rất gần, còn
để lại ám khói trên vết thương. Có nghĩa là tướng Thế bị ám sát chứ không phải
bị bắn chết. Một giả thuyết thứ hai của ông Nhị Lang và của viên sĩ quan tình
báo Savani, trước khi chết Savani thú nhận người của Pháp giết với chỉ MỘT viên
đạn. Với một viên đạn thì có thể là bị bắn chết nhưng không phải bị ám sát.
Về vấn đề này, nếu tin
vào lời xác nhận của bà Kim thì quả thật tướng Thế đã bị ám sát chết, không thể
là bị giết như lời chứng của ông Nhị Lang.
– Vấn đề ai ám sát:
Nhưng ai ám sát hay ra lệnh ám sát tướng Thế? Ai giết thì chính bà Kim không
chắc, chỉ giả định có thể là bị giết trong dinh độc lập khi họp với ông Ngô
Đình Nhu. Riêng Lê Trọng Văn mạo nhận là mật vụ của Ngô Đình Nhu và xác nhận
ông Nhu đã giao cho đại tá Văn Thành Cao, tư lệnh phó Cao Đài và đại úy Tạ
Thành Long, tùy viên của tướng Thế để giết tướng Thế. Ông Tuyến cho biết nếu là
mật vụ thì ông phải biết và phủ nhận không có một ai tên Lê Trọng Văn trong đám
bộ hạ của ông. Vậy những điều gì Lê trọng Văn xác nhận không đáng tin cậy, phải
gạt bỏ.
– Vì giả thuyết cho
rằng chỉ có một viên đạn nên ông Nhị Lang và cả ông Tú Gàn trong bài: Sự kiện
mới đều cho người bắn là có thể từ dưới sông bắn lên và gián tiếp gạt bỏ giả
thuyết của bà Kim cho rằng chồng bà bị giết trong dinh Độc lập.
Qua trình bày trên, nếu tin vào lời bà Kim hơn những người ngoài gia đình tôi có thể đi đến kết luận là tướng Thế bị ám sát, không phải bị giết, nhưng ai giết thì chưa biết rõ chắc chắn, tất cả chỉ là giả thuyết thôi. Không một ai trong những nhân chứng ở trên có thể quyết chắc ai chính là thủ phạm giết tướng Thế.
Qua trình bày trên, nếu tin vào lời bà Kim hơn những người ngoài gia đình tôi có thể đi đến kết luận là tướng Thế bị ám sát, không phải bị giết, nhưng ai giết thì chưa biết rõ chắc chắn, tất cả chỉ là giả thuyết thôi. Không một ai trong những nhân chứng ở trên có thể quyết chắc ai chính là thủ phạm giết tướng Thế.
Nên nhớ rằng ngay cái
chết của hai anh em nhà Kennedy, biết rõ ràng là hai vụ ám sát mà cho đến nay
vẫn chưa có cơ hội tìm ra thủ phạm giết hai người họ. Chúng ta căn cứ vào cái
gì để có thể hơn những cuộc điều tra riết ráo của Mỹ?
Trong trường hợp VN,
thiếu hẳn cơ quan điều tra ngay trong thời kỳ đó, việc xác định không phải là
dễ và rất có cơ nguy không bao giờ tìm ra thủ phạm.
Xin nói thêm việc ông
Tú gàn (Lữ Giang) viết như sau:
Từ ngày tướng Thế bị
tử trận đến ngày qua Mỹ, gia đình tướng Thế không bao giờ nêu ra một nghi vấn
nào về cái chết đó. Nhưng kể từ ngày Lê Trọng Văn qua Canada, tìm đến gặp gia
đình bà Trình Minh Thế “thầy dùi”, nghi vấn mới bắt đầu được đưa ra.
Về điều quả
quyết này, căn cứ vào đâu, ông Tú Gàn có thể xác quyết như thế? Con trai tướng
Thế là Trình Minh Sơn đã phủ nhận điều này và cho rằng gia đình ông không hề
bao giờ gặp Lê Trọng Văn cả. Ông Tú Gàn trách nhiệm về việc xác quyết này.
Vĩnh Phúc
Nguồn: DCVOnline
DCVOnline: Về Vĩnh Phúc —
tác giả tên thật là Kiều Vĩnh Phúc. Trước 1975 là nhà giáo tại miền Nam Việt
Nam. Từ 1979 “làm mõ” tại London. Vì dị ứng với không khí nơi làm việc, đến
1996 đã về hưu sớm để trồng hoa, nuôi chim ... và chơi với chó!
Tác phẩm đã xuất
bản: Dòng Thames Thì Thầm (Phiếm), Những Huyền Thoại
Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm (Tài liệu sử), Đối Thoại (Tài
liệu văn học), Phiếm 2006.
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline
Tác giả Nguyễn Văn
Lục, trước và sau 1975 đã làm việc ở nhiều lãnh vực khác nhau, rất tâm đắc với
việc làm hiện tại và chức danh Chuyên gia Thông Ống Cống.
Copyright ©
2006–2007 DCVOnline
Comments
Post a Comment