Nguyên Ủy và Nguyên Do
Nguyên
Ủy và Nguyên Do
Trần Trung Chính
Trong những
ngày tháng gần đây 2 sự kiện diễn biến tại bán đảo Triều Tiên đã làm khuấy động
tình hình chính trị trên toàn thế giới và sự kiện chiếu phim VIETNAM WAR trên
đài truyền hình PBS đã làm khuấy động Cộng Đồng Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản và một
số ít người Hoa Kỳ có dính líu đến chiến tranh Vietnam (Ghi chú: người viết
không đề cập đến người Việt trong nước vì phim này không được công chiếu tại Việt
Nam nên dân chúng không biết những gì đã được đưa lên màn ảnh, cho nên không
thể có ý kiến khen chê hay bình luận gì cả).
Tôi cũng đọc
khá nhiều ý kiến bình luận về tình hình tại bán đảo Triều Tiên cũng như ý kiến
về phim VIETNAM WAR, nhận xét chung của người viết là hơn 95% tác giả các bài
viết đề cập đến «nguyên do» của hiện
tại mà chẳng có ai đề cập đến «nguyên ủy»
của sự kiện hiện nay (nguyên ủy của sự kiện đã có từ 70 năm trước), cho nên các
độc giả nếu thiếu sót về tình hình thế giới, thiếu kiến thức sử địa cũng như
khiếm khuyết về chính trị… sẽ bị đám truyền thông thổ tả chuyên cung cấp tin
giả (hay tin lệch lạc) hướng dẫn quần chúng đến những chỗ chống chính quyền Hoa
Kỳ hiện nay (trong quá khứ trước 1975, cũng có rất nhiều phần tử sống trong đất
nước VNCH lại ra sức theo phò trợ bọn Việt cộng, các phần tử này được gán cho
danh xưng «Ăn cơm Quốc Gia , thờ ma Cộng
Sản») hay làm lợi cho bọn tả khuynh thiên Cộng, như nhóm Liberals trong
Đảng Dân Chủ của Hoa Kỳ!
Ghi chú của người viết:
Cũng
có thể xem «nguyên do» như là «micro-history» của chiến tranh Việt Nam . Và «nguyên ủy» như là «macro-history» của chiến tranh Việt Nam . Cũng vì các bình luận gia
chính trị trên các phương tiện truyền thông, các tác giả biên soạn hồi ký chiến
tranh cũng các nhà biên soạn kịch bản cho các films truyện đều chỉ dựa trên «nguyên do» cho nên các diễn biến của
chiến tranh Việt Nam từ 1945 đến 1975 đã trở nên hỗn độn và mâu thuẫn nhau một
cách khó hiểu. Người viết cố gắng trình bày thêm những «nguyên ủy» của cuộc chiến để quý vị độc giả «cảm thông» cho những điều không thể nói, không thể giải bày của các
vị lãnh đạo VNCH cho dân chúng Việt Nam bình thường như chúng ta trong khoảng
thời gian gần tàn cuộc chiến. Nhất là những người Việt tỵ nạn Cộng Sản vẫn còn
nhiều uất hận và ấm ức cho sự sụp đổ của VNCH.
Tôi đoan chắc
là nhiều độc giả không phân biệt thế nào là NGUYÊN ỦY, cũng như thế nào là
NGUYÊN DO cho nên tâm tư suy nghĩ trở nên «lùng
bùng», lúc nào cũng phải mở TV nghe các XNV hướng dẫn dư luận quần chúng «chỉ bảo» phương cách chống lại chính phủ
đương nhiệm (dù rằng sự chống đối chính phủ đương nhiệm xuất xứ từ những lý do
rất là vớ vẩn và ngô nghê).
Theo từ điển,
NGUYÊN ỦY = (danh từ) nguồn gốc của sự việc . Trong khi đó NGUYÊN DO = (danh
từ) nguyên nhân sâu xa và NGUYÊN NHÂN = (danh từ) hiện tượng làm nảy sinh ra
hiện tượng khác, trong liên hệ với hiện tượng khác đó.
«Nguyên Ủy» của Thế Chiến II bắt đầu từ
Âu Châu là 2 quốc gia phát triển kỹ nghệ GERMANY và ITALIA không có thuộc địa
để cung ứng nguyên vật liệu và nhiên liệu. (Ở Á Châu cũng vậy, Nhật Bản cũng
gây chiến vì cũng không có thuộc địa cung ứng nguyên liệu và nhiên liệu cho kỹ
nghệ phát triển). Cho nên trong các hội nghị quốc tế tại Teheran, Yalta và
Cairo do các đại cường nhóm họp (Hoa Kỳ, Liên Sô, Anh Quốc và Trung Hoa Dân
Quốc), Hoa Kỳ do Tổng Thống Roosevelt đề xướng là sau khi Thế Chiến II chấm
dứt, các đế quốc phải trao trả độc lập cho các thuộc địa.
Sau Thế Chiến
II, chính quyền Vichy của Thống Chế Pétain sụp đổ và cá nhân ông bị kết án TỘI
PHẢN QUỐC, Tướng Charles de Gaulle – lãnh đạo Phong Trào Pháp Tự Do tạm nắm
quyền, trong cảm tình riêng với Thủ Tướng Churchill, ông đã xin cho đoàn quân
viễn chinh của Pháp do Tướng Leclerc cầm đầu theo chân 5,000 quân Anh –Ấn do
Tướng Gracey cầm đầu vào Sài Gòn để giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16
xuống Mũi Cà Mau. Sau khi giải giới xong, quân Anh-Ấn xuống tàu thủy trở về
nước, còn quân đội Pháp ở lại.
Thủ Tướng
Churchill quên lời hứa trao trả độc lập cho các thuộc địa hay sao? Không đúng
vì 2 năm sau, vào năm 1947 chính phủ Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ. Như vậy
NGUYÊN ỦY của sự việc quân viễn chinh Pháp trở lại Động Dương vì cả 2 chính phủ
Anh – Pháp biết rõ Hồ Chí Minh là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản nên cố
tình dùng quân đội viễn chinh Pháp để ngăn trở sự bành trướng của Nhà Nước Việt
Nam Cộng Sản (phía Việt cộng hay dùng nhóm từ này, còn phía VNCH thì dùng là
Quốc Gia Cộng Sản).
Ghi chú của người viết:
Các nhà nghiên cứu Sử của VNCH và của
Việt Cộng không để ý và không giải thích nổi tại sao diện tích của Tây Đức lớn
gấp 3 Đông Đức – dĩ nhiên dân số cũng lớn gấp 3 (60 triệu so với 17 triệu).
Thành phố Berlin nằm gọn lỏn trong địa giới của Đông Đức mà lại chia làm 4 với
3 phần nằm phía Tây Bá Linh vẫn còn hiện diện của quân đội Hoa Kỳ, quân đội Anh
và quân đội Pháp trấn giữ cho đến ngày thống nhất. Từ Tây Đức vẫn có xa lộ dẫn
vào Tây Bá Linh mà quân Liên Sô và Đông Đức không dám ngăn chận.(Trong thực tế,
vào năm 1948, Stalin đã bao vây và phong tỏa Tây Berlin rồi, nhưng Tổng Thống
Truman ra lệnh cho Không Quân Hoa Kỳ mở cầu không vận tiếp tế nhu yếu phẩm cho
dân chúng và chính quyền của thành phố này. Về sau, thấy cuộc phong tỏa bằng
đường bộ không có kết quả gì, Stalin ra lệnh bãi bỏ cuộc phong tỏa: người viết
không nhớ được vào thời điểm nào của năm 1948).
NGUYÊN ỦY của sự việc là: trước khi tự
sát, Hitler đã ra lệnh cho quân lực Đức Quốc Xã cũng như các sư đoàn SS thiện
chiến bỏ mặc mặt trận phía Tây cho liên quân Hoa Kỳ – Anh – Pháp chiếm giữ,
quay qua phía Đông ác chiến để cản trở Hồng Quân Liên Sô. Do đó Stalin dù quân
số áp đảo (sử dụng 2 «phương diện quân»- mỗi «phương diện quân» do một Nguyên
Soái cầm đầu với quân số suýt soát 1 triệu) vẫn không làm sao chiếm được nhiều
diện tích như mong muốn. Riêng thành phố Berlin, xa lộ dẫn vào thành phố này
được bỏ ngõ để chiến xa và quân xa của quân đội Hoa Kỳ , Anh và Pháp chạy thẳng
vào thành phố chiếm giữ các nơi trọng yếu. Quân đội Đức Quốc Xã đã lập được
hàng rào thép không cho Hồng Quân Liên Sô cắt đứt bất cứ đoạn đường nào cả.
Theo sự thỏa thuận trong hội nghị Postdam, liên quân Đồng Minh và Hồng Quân
Liên Sô sẽ ngưng tiếng súng khi các đơn vị bắt tay được với nhau. Dĩ nhiên quân
đội Đức Quốc Xã bị quân Đồng Minh bắt làm tù binh cũng đông gấp bội.
Trở lại cuộc
chiến Triều Tiên 1950 -1953, người viết cũng không thấy nhà nghiên cứu nào đặt
câu hỏi là Hoa Kỳ được lợi gì khi tham chiến đối đầu với cả triệu quân Trung
Cộng? Người viết không lập lại những điều người ta đã mô tả những NGUYÊN DO và
NGUYÊN NHÂN của cuộc chiến Triều Tiên. Lại càng không thấy các học giả người
Đại Hàn đặt danh xưng cuộc chiến này là «Cuộc
nội chiến giữa 2 miền Nam – Bắc Triều Tiên»: chỉ thấy phe Bắc Triều Tiên
tuyên truyền la toáng lên rằng «Đế Quốc
Mỹ xâm lược Triều Tiên» mà thôi. Vậy đâu là sự thật?
Trước tháng
8/1945, Hàn Quốc là thuộc địa của Nhật Bản (từ 1910), cho nên hội nghị Postdam
quy định giải giới quân đội Nhật tại Hàn Quốc là quân đội Hoa Kỳ. Một triệu
quân Quan Đông của Nhật đóng tại Mãn Châu (lãnh địa của Trung Hoa) sẽ bị giải
giới bởi quân đội của Trung Hoa Dân Quốc. 3 ngày trước khi Nhật Bản ký thỏa ước
đầu hàng trên chiến hạm Missouri ,
Liên Sô đơn phương tuyên chiến với Nhật và tự động giải giới 01 triệu quân Quan
Đông. Số quân trang quân dụng của đạo quân Quan Đông được Stalin trao lại cho
quân của Mao. Với số trang bị khổng lồ này, Mao Trạch Đông đã đánh bại Tưởng
Giới Thạch vào năm 1949: Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đài Loan. Tuy Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa chưa được công nhận, nhưng chiến tranh đã bắt đầu. Cùng một
thời điểm, Mao Trạch Đông mở 2 mặt trận:
Mặt trận thứ nhất tại bán đảo Triều
Tiên: năm
1950, Mao sử dụng 250,000 quân Trung Cộng đặt dưới quyền chỉ huy của Kim Nhật
Thành «giải phóng» Triều Tiên, đuổi
chính phủ và quân đội của Lý Thừa Vãn chạy xuống tận cùng Nam Hàn chỉ còn 10 km
nữa là ra biển. Tướng Mac Arthur chỉ huy 280,000 quân Liên Hiệp Quốc đổ bộ hải
cảng Inchon đánh tan đạo quân xâm lược của Kim Nhật Thành và tiến quân tới tận
sông Áp Lục (ranh giới thiên nhiên giữa Trung Hoa và Hàn Quốc): quân đội Hoa Kỳ
có 250,000 quân nhân trong đạo quân 280,000 người của Liên Hiệp Quốc. Sợ bị
thua, Mao Trạch Đông xua 01 «triệu chí
nguyện quân Trung Hoa» dưới sự chỉ huy của Nguyên Soái Bành Đức Hoài sang tiếp
viện, nhưng chỉ tới được vĩ tuyến 38 thì bị khựng lại bởi hỏa lực hùng hậu của
quân lực Hoa Kỳ. Tới 1953, 2 phe tham chiến ký thỏa thuận ngưng chiến lại làng
Bàn Môn Điếm, địa danh này nằm sát ngay cạnh ranh giới tạm của 2 miền Nam –
Bắc.
Sở dĩ chỉ có «thỏa thuận ngưng chiến» mà không có ký
kết thỏa ước hay hiệp định gì cả vì: Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tin rằng «thỏa ước» hay «hiệp định» sẽ quy định thống nhất 2 miền bằng bầu cử thì Bắc Hàn
chắc chắn sẽ… thua! Xin nói rõ đây là luận điệu của phe Cộng Sản đưa ra để che
giấu một sự thực bất lợi cho chúng, đó là: chính phủ Hoa Kỳ do ngoại trưởng
Dulles đứng đầu đã không công nhận Trung Cộng và Bắc Hàn là «thực thể quốc gia» nên không thể có thỏa
ước hay hiệp định cấp chính phủ ký kết, thay vào đó là các «tư lệnh chiến trường» của các bên tham
chiến ký vào bản «thỏa thuận ngưng chiến»
(Hoa Kỳ một lần nữa minh định lập trường này tại Hội Nghị Geneve 1954: Ngoại
Trưởng Dulles đến phòng hội sau các ngoại trưởng các quốc gia khác, khi bước
vào phòng hội nghị, Chu Ân Lai – Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng của Trung Cộng
tươi cười đón chào và giơ tay muốn shake hand với Ngoại Trưởng Dulles ở bên
ngoài cổng của phòng họp, nhưng ông Ngoại Trưởng Dulles ngó lơ rồi bước vào
phòng họp, bắt tay và nói chuyện với Ngoại Trưởng Molotov của Liên Sô. Chu Ân
Lai ôm mối hận vì bị làm nhục, phải đợi tới năm 1972 , khi Tổng Thống Nixon
thăm Bắc Kinh, Chu Ân Lai mới nhắc chuyện này với Tổng Thống Nixon thì Ngoại
Trưởng Dulles đã qua đời từ lâu).
Mặt trận thứ hai tại Việt Nam: vì Việt Nam vẫn còn là
thuộc địa của Pháp với sự hiện diện của hơn 100,000 quân viễn chinh nên quân
Trung Cộng không thể tự tiện kéo quân tràn qua biên giới Hoa – Việt để làm ẩu
như Kim Nhật Thành đã làm hồi năm 1950. Thay vào đó, các tướng của Trung Cộng
chỉ núp dưới danh nghĩa «cố vấn» chỉ
huy liên quân VM-TC đã làm các tướng lãnh của Pháp tại mặt trận biên giới Hoa –
Việt chới với trong «Chiến Dịch Biên Giới
1950». Chính phủ Pháp cử Thống Tướng De Lattre De Tassigny sang Đông Dương
làm Tư Lệnh và tăng số quân lên tới 220,000 người. Thống Tướng De Lattre De
Tassigny đã đẩy lùi liên quân VM-TC sang bên kia biên giới Hoa – Việt, nhưng
ông cũng thừa hiểu là nước Pháp không đủ tài lực để theo đuổi cuộc chiến chống
quân TC, cho nên đích thân ông sang Hoa Kỳ cầu viện người bạn cũ là Đại Tướng
Eisenhower vừa mới đắc cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ vào tháng 11/1952.
Nhận xét riêng của người viết về vấn đề nước
Pháp chiếm lại thuộc địa Đông Dương:
Tướng Charles De Gaulle không thể đề cập
vấn đề tái chiếm thuộc địa Đông Dương với Thủ Tướng Churchill khi vận động sự
đồng ý chấp thuận cho phép đạo quân viễn chinh của Tướng Leclerc theo chân
5,000 quân Anh – Ấn của Tướng Gracey vào Sài Gòn giải giới quân đội Nhật Bản.
Lý do chính được Thủ Tướng Churchill chấp thuận vì Hồ Chí Minh đã cướp được
chính quyền để thiết lập Nhà Nước Cộng Sản đầu tiên tại Á Châu, quân đội Anh
không thể làm công việc ngăn trở Hồ Chí Minh thiết lập Nhà Nước Cộng Sản được,
chỉ có quân đội viễn chinh Pháp mới làm được. Vả lại, chính quyền của Hồ Chí
Minh không được nước nào công nhận hết cả cho nên trong nhận định của Tướng De
Gaulle và Thủ Tướng Churchill coi Việt Minh chỉ là đám giặc cướp cần phải bị
loại bỏ (mà Việt Minh chính là bọn giặc cướp thật sự) . Cần bị loại bỏ vì Nhà
Nước Cộng Sản Việt Nam sẽ làm cho các thuộc địa của Anh lâm nguy như Malaysia,
Thailand – tuy có vua nhưng chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của đế quốc Anh, Miến
Điện, Ấn Độ…Sự cho phép quân đội Pháp theo chân quân Anh-Ấn vào Sài Gòn hồi
1945 của Thủ Tướng Churchill là câu chuyện đôi bên Anh – Pháp đều có lợi.
Những ẩn khúc
của cuộc chiến Việt Nam
cần được làm sáng tỏ với những «nguyên ủy»
của mỗi ẩn khúc:
1)
Tại sao chính phủ Pháp không sớm trao trả độc lập cho Việt Nam mà phải đợi đến kết quả của căn cứ Điện Biên
Phủ sụp đổ mới chịu rời bỏ Việt Nam ?
2)
Tại sao chính phủ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm không chịu ký vào bản thỏa ước
của Hiệp Định Genève 1954?
3)
Tại sao chính phủ Mỹ tích cực yểm trợ cho chính phủ Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ
1954 đến 1960 để rồi sau đó đến 1963 lại quyết tâm đánh đổ nền đệ nhất Cộng
Hòa?
4)
Sau tháng 11/1963, Hoa Kỳ lại để các tướng lãnh «bát nháo» tranh quyền đoạt chức qua các hình thức «chỉnh lý» , «biểu dương lực lượng»… khiến tình hình chiến sự leo thang mà phần
thất lợi nghiêng về phía VNCH.
5)
Sau khi đổ hơn ½ triệu quân nhân vào chiến trường Việt Nam , tướng
Westmoreland được lệnh «chiến đấu không
được thắng Việt cộng». Ý nghĩa đích thực của lệnh này ra sao?
6)
Hiệp Định Paris 1973 không quy định quân ngoại nhập Bắc Việt phải rút về Bắc mà
chỉ quy định quân đội Hoa Kỳ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, đó là một bất lợi
rất lớn cho VNCH mà Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đành phải ký (trong khi Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm ở vào vị thế yếu hơn Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhiều mà
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm không chịu ký vào Hiệp Định Geneve 1954).
7)
Tại sao Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải ra lệnh «rút quân» trong khi quân lực VNCH chưa thua tại bất cứ nơi nào trên
các vùng chiến thuật, mặc dù ông biết quyết định «rút quân» của ông bị rất nhiều người lên án?
8)
Sau 30 tháng 4 /1975, ngay chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và các vị tướng
lãnh có trách nhiệm không giải bày những nguyên ủy của sự đổ vỡ của VNCH: các
vị đã im lặng hoàn toàn và đem những bí ẩn của lịch sử xuống tuyền đài như Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Trần Văn Hương, Tổng Thống Dương Văn Minh,
Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng, Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Chuẩn Tướng Vũ Văn
Giai, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng …(người còn sống năm nay đã 92 tuổi là Đại
Tướng Trần Thiện Khiêm thì chưa bao giờ lên tiếng và người viết dự đoán Đại
Tướng Trần Thiện Khiêm cũng sẽ không lên tiếng như các vị đã khuất đã không lên
tiếng).
Để góp phần soi
sáng lịch sử, cá nhân người viết sẽ nêu ra các NGUYÊN ỦY của 8 ẩn khúc nhưng
cũng thừa biết sẽ có nhiều độc giả lên tiếng phản bác hay nghi ngờ người viết
có ý định «bóp méo» hoặc «sửa đổi» lịch sử. Theo ý kiến của người
viết, các NGUYÊN ỦY của những ấn khúc này cũng chỉ là yếu tố lịch sử: cho nên
đã là yếu tố lịch sử (facts) thì không thể «bóp
méo» hay «sửa đổi» gì được.
Trước khi diễn
giải 8 ẩn khúc, xin nhắc qua môn học có tên là OPERATIONS RESEARCHES mà người
viết được học từ Kỹ Sư Nguyễn Trọng Hiền – thời điểm 1972 – 1973 Giáo Sư Thỉnh
Giảng Nguyễn Trọng Hiền dạy tại Ban Cao Học của phân khoa Chính Trị Kinh Doanh
– thuộc Viện Đại Học Dalat. Giáo Sư Nguyễn Trọng Hiền dịch ra Việt Ngữ là Môn
NGHIÊN CỨU TÁC VỤ, môn học này phát sinh từ Anh Quốc và Hải Quân Hoàng Gia Anh
sử dụng môn học này vào những năm đầu của thập niên 1940 trong khi giao chiến
với Hải Quân và Quân Lực Đức Quốc Xã. Trong bộ môn này có 01 chương có tên là
THEORY OF GAMES (Giáo Sư Hiền dịch ra Việt Ngữ là LÝ THUYẾT CẠNH TRANH), trong
đó có 2 quan niệm là:
*MAXIMIN tạm
dịch là «tối đa hóa những thắng lợi nhỏ»
*MINIMAX tạm
dịch là «tối thiểu hóa những thiệt hại
lớn»
Chiến tranh là
những games mà các phe lâm chiến sẽ phải áp dụng, do đó người viết tin rằng chỉ
cần hiểu sơ các quan niệm trên thì quý độc giả sẽ thấu đáo ngay những phương cách
hành xử mà các nguyên thủ của các «đại
cường» đã áp dụng: bên thắng cuộc sẽ là bên thủ đắc được những lợi vật chất
nhỏ mà ít thiệt hại nhân mạng nhất. Bên thua cuộc sẽ là bên đạt được những lợi
ích vật chất lớn nhưng tổn thất quá nặng nề về nhân sự để rồi không còn «nhân tài» hầu xây dựng tái thiết đất
nước hoang tàn sau chiến tranh. (Bọn trẻ con 15 – 16 tuổi chỉ biết cầm súng
giết đối phương thì giỏi, ngoài ra chỉ biết ăn chứ không thể làm bất cứ cái gì
khác).
«Nguyên
Ủy» của ẩn khúc thứ nhất: trước khi phe Trục sụp đổ, các nhà lãnh đạo của Hoa
Kỳ , Anh và Pháp như Tổng Thống Roosevelt (sau này tiếp nối là Tổng Thống
Truman), Thủ Tướng Churchill và Tướng De Gaulle đều đã tiên liệu là đấu trường
sắp tới tại Âu Châu là cả 3 nước phải đối đầu với Liên Sô do Stalin lãnh đạo.
Dấu hiệu rõ ràng nhất ai cũng thấy là cả 3 nước (Hoa Kỳ, Anh và Pháp) chỉ cho
các quân nhân bị động viên hồi Thế Chiến 2 giải ngũ mà thôi. Các quân nhân hiện
dịch vẫn còn tại ngũ và vẫn trú đóng tại Tây Đức để «sẵn sàng tác chiến».
Luận điệu «thực dân Pháp tái chiếm thuộc địa Đông Dương»
là do Hồ Chí Minh và bọn đàn em tung ra nhằm lôi kéo những người yêu nước muốn
cho nước Việt Nam
được hoàn toàn độc lập. Mục đích chính của sự hiện diện của các lực lượng quân
sự của Pháp tại Việt Nam
là ngăn cản sự hình thành «một nhà nước
Cộng Sản». Thủ Tướng Trần Trọng Kim, một học giả uyên bác và cũng là một
chính trị gia hiền lành đã nhận xét về Hồ Chí Minh (trong quyển MỘT CƠN GIÓ BỤI
do nhà xuất bản Tân Việt in hồi 1952) là con người tàn bạo và rất có hại cho
đất nước Việt Nam .
Thủ Tướng Trần Trọng Kim mà còn biết rõ như vậy thì các cơ quan tình báo của
Pháp, của Anh đương nhiên phải biết và như đoạn trên người viết đã đề cập:
chính quyền Pháp – Anh phải tìm cách «tối
thiểu hóa các thắng lợi to lớn» của Cộng Sản Việt Nam .
Ghi chú của người viết:
Chính vì không thể che lấp được sự thật
của lịch sử nên bọn cầm quyền CSVN đã không cho quyển sách MỘT CƠN GIÓ BỤI của
Thủ Tướng Trần Trọng Kim tái xuất bản vào tháng 9/2017 vừa qua. Dù vậy ấn bản
của nhà xuất bản TÂN VIỆT ấn hành hồi 1952 vẫn được dân chúng VNCH biết đến và
ngay tại hải ngoại, một vài người còn lưu giữ quyển sách này đã chuyển lên
internet dưới dạng pdf. Cách nay 2 năm, các nhà nghiên cứu Hán Nôm tại Hà Nội,
trong khi đọc lại các sách vở của ông Hoàng Xuân Hãn – nguyên bộ trưởng Bộ Giáo
Dục trong chính phủ của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, các nhà nghiên cứu đã tìm
thấy một lá thư viết tay của Thủ Tướng Trần Trọng Kim viết riêng cho ông Hoàng
Xuân Hãn mà ông đã bỏ quên trong quyển sách nằm trong tủ sách của gia đình, nội
dung còn nặng nề và bất lợi cho Hồ Chí Minh nhiều hơn những gì đã mô tả trong
quyển MỘT CƠN GIÓ BỤI. Xin cảm ơn INTERNET vì nhờ công cụ này những bí mật lịch
sử đã được công bố mà những nhà cầm quyền độc tài xấu xa như bọn Việt cộng
không thể che giấu, bưng bít và tiêu hủy được.
Sau khi Mao
Trạch Đông chiếm được Trung Hoa Lục Địa , có một liên minh quân sự to lớn của
Hoa Kỳ và Pháp hình thành (nhưng quá ít người để ý và cũng vì liên minh này
không có văn bản công khai công bố) để cùng nhau cản bước xâm lược của Trung
Cộng tại 2 chiến trường Triều Tiên và chiến trường Việt Nam.
Nước Pháp dù
nhỏ hơn và không giàu có như Hoa Kỳ, nhưng đã thể hiện sự quyết tâm ngăn chận
Cộng Sản bằng cách Quốc Hội Pháp thông qua ngân sách tài chánh để nuôi 220,000
quân sĩ theo sự đòi hỏi của Thống Tướng De Lattre De Tassigni. Chính sự quyết
tâm chiến đấu chống sự bành trướng của Đế Quốc Cộng Sản của Hoa Kỳ và Pháp đã
khiến cho Stalin chùn bước không dám «chiếm
đoạt» Tây Âu bằng một cuộc xâm lăng quân sự.
Chính phủ Pháp
không dám trao trả độc lập cho Việt Nam vì nói thẳng ra là phe Quốc Gia quá yếu
(mặc dù trao trả cho Việt Nam độc lập thì quân đội Pháp dễ rút chân ra khỏi
vũng lầy của cuộc chiến): yếu đến nỗi nếu phe Quốc Gia được Pháp trao trả độc
lập thì chỉ có 3 x 7 = 21 ngày là Hồ Chí Minh và đàn em Việt cộng sẽ nuốt chửng
toàn thể Việt Nam.
«Nguyên
ủy» của ẩn khúc thứ nhì: Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu rút
kinh nghiệm của Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông không ký kết bất kỳ hòa ước hay
thỏa ước nào mà chỉ ký «hiệp định ngưng
chiến Bàn Môn Điếm».
Vì không ký vào
bản Hiệp Định Geneve 1954 nên chính quyền VNCH không có trách nhiệm pháp lý nào
bị bắt buộc phải thi hành những khoản phụ thuộc của Hiệp Định. Nếu ký tên vào
bản Hiệp Định Geneve 1954 , chính phủ VNCH sẽ bị trói tay trong khi VNDCCH thì
luôn luôn vi phạm bằng cả hình thức công khai và lén lút để thủ đắc những ý
định và mưu đồ xấu xa (thí dụ như: vào năm 1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm thách
thức Hồ Chí Minh là phải tổ chức bầu cử hiệp thương thống nhất đất nước trên cả
2 miền Nam – Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh cứ khăng khăng là chỉ có miền Nam mới
phải «bỏ phiếu», thực tế là Hồ Chí
Minh không dám cho nhân dân miền Bắc «bỏ
phiếu» vì qua chiến dịch «Cải Cách
Ruộng Đất» vào năm 1953, cũng như Phong Trào Trăm Hoa Đua Nở từ 1956 đến
1958, Hồ Chí Minh và chính quyền CSVN làm rất nhiều người oán ghét).
«Nguyên Ủy»
của ẩn khúc thứ ba: sau khi Thống Tướng De Lattre De Tassigni trở lại Đông Dương, chính
phủ Hoa Kỳ cử Đại Tá Lansdale sang Việt Nam
để chuẩn bị nhân sự dọn đường cho sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam . Giới
chức cao cấp nhất của chính phủ Hoa Kỳ viếng thăm Việt Nam vào năm
1953 là Phó Tổng Thống Richard Nixon. Chỉ riêng việc Đại Tá Lansdale chỉ tiếp
xúc với các nhân sĩ và các phe phái vũ trang tại miền Nam Việt Nam không thôi
(như Cao Đài , Hòa Hảo…) và không có bất cứ tiếp xúc với các đảng phái chính
trị tại miền Bắc như Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Duy Dân
Quốc Dân Đảng… đủ minh chứng là Hoa Kỳ sẽ bỏ miền Bắc rơi vào tay Cộng Sản, và
dồn công sức giữ miền Nam để ngăn chận sự bành trướng của Đế Quốc Cộng Sản. Đó
là chưa kể rằng, biên giới Hoa Việt là nơi an toàn khu cho liên quân Việt cộng
– Trung Cộng. Và cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội (do người Pháp gầy dựng, đã bị Hồ
Chí Minh và Việt cộng nghe theo lời chỉ đạo của các cố vấn Tàu Cộng , phá nát
trong cái chiến dịch gọi là «tiêu thổ
kháng chiến» ).
Công việc chuẩn
bị này của chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện trước khi ông Ngô Đình Diệm lên làm
Thủ Tướng chính phủ (Ông Ngô Đình Diệm chấp chánh làm Thủ Tướng vào ngày 7
tháng 7 năm 1954) cũng có nghĩa là giải pháp chia cắt Việt Nam là điều Hoa Kỳ
đã dự trù trước chứ không phải là sau khi căn cứ Điện Biên Phủ thất thủ, Hoa Kỳ
mới thay thế nước Pháp để can thiệp vào Việt Nam.
Hoa Kỳ thừa
biết Hồ Chí Minh và chính quyền Cộng Sản không đủ sức tấn công tiếp tục vào
quân đội Pháp để chiếm toàn cõi Việt Nam, nên họ phải cần tĩnh dưỡng và chỉnh
đốn hàng ngũ tại phần đất miền Bắc: Hồ Chí Minh cũng chủ quan khi nhận thấy
rằng với tình hình chính trị nát bét tại miền Nam, ông Ngô Đình Diệm sẽ
khó lòng bình định được miền Nam và đợi đến năm 1956, Hồ Chí Minh sẽ thống nhất
Việt Nam qua giải pháp «hiệp thương».
Nhưng trong
vòng 2 năm, chính phủ Ngô Đình Diệm đã quét sạch rác rưởi chính trị (do người
Pháp để lại) để ổn định tình hình và bắt đầu xây dựng kinh tế cũng như xây dựng
nền tảng chính trị dân chủ cho VNCH, cho nên ước vọng của Hồ Chí Minh không
thành vì chính phủ Ngô Đình Diệm từ chối thực thi «giải pháp hiệp thương thống nhất đất nước» mà Hồ Chí Minh và chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có cơ sở pháp lý để kiện cáo tại tòa án trọng tài quốc tế La
Haye (ngoại trừ việc la ó tuyên truyền bằng mồm là chính phủ Ngô Đình Diệm vi
phạm Hiệp Định Genève 1954 ). Đây là giai đoạn mà Hoa Kỳ tích cực ủng hộ cá
nhân và chính phủ Ngô Đình Diệm.
Thấy không
thống nhất đất nước bằng giải pháp chính trị ôn hòa, Hồ Chí Minh liền quay sang
giải pháp tiến chiếm miền Nam bằng giải pháp quân sự (dĩ nhiên có sự tán trợ và
chỉ đạo từ phía Trung Cộng): tháng 12/1959 Hồ Chí Minh thành lập cái gọi là Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam ngay tại Hà Nội rồi tô sơn vẽ mặt cho tổ chức này bằng
những luận điệu xảo trá như là: Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là tổ chức do nhân dân miền Nam tự động
đứng lên chống lại chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm.
Hồ Chí Minh ra
lệnh thành lập Đoàn 66 và âm thầm chuyển quân qua Lào để mở rộng hệ thống xa lộ
Trường Sơn hầu chuyển vận quân đội xâm lăng miền Nam nhưng vẫn gọi «đường mòn Hồ Chí Minh» để đánh lừa thiên
hạ. Chính phủ Lào quá yếu để cản ngăn Hồ Chí Minh và quân Bắc Việt, thêm vào
đó, Cộng sản Bắc Việt yểm trợ cho Pathet Lào quấy phá mạnh để áp lực chính phủ Lào thành lập
«chính phủ liên hiệp» với ý đồ đưa
quân đội qua Lào dưới bình phong của Pathet Lào cho phép.
Hoa Kỳ không
thể đem quân đội vào Bắc Việt để đánh tan quân lực của Cộng sản Bắc Việt (như Đại Tướng Mc
Arthur đánh tan quân đội của Kim Nhật Thành tại Triều Tiên hồi 1950) cho nên các
nhà chiến lược quân sự của Hoa Kỳ đưa ra giải pháp là tiêu diệt tiềm năng chiến
tranh của Bắc Việt ngay tại lãnh địa của Việt Nam Cộng Hòa. Hoa Kỳ cũng thừa
biết là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp rất e ngại ông Ngô Đình Diệm có khả năng
hóa giải kế hoạch xâm lăng VNCH của họ qua các sự kiện chính phủ Ngô Đình Diệm
đã phát động chiến dịch Tố Cộng và thành lập Quốc Sách Ấp Chiến Lược. Đây là
những công việc của chính phủ Ngô Đình Diệm đối phó với chiến tranh du kích của
Hồ Chí Minh và Cộng sản Bắc Việt.
Nhưng khi thành
lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và xây dựng hệ thống xa lộ Trường Sơn, Hồ Chí Minh và Cộng sản Bắc Việt đương
nhiên từ bỏ chiến tranh du kích mà chuyển qua chiến tranh xâm lược với trạng
thái vận động chiến. Đó là lý do, ngay trước khi Tổng Thống Kennedy nắm quyền
(27/01/1961) Hoa Kỳ đã từng đề nghị đưa quân đội vào tham chiến tại Việt Nam . Muốn dụ Bắc
Việt đem quân ồ ạt vào miền Nam, chính phủ Hoa Kỳ đã làm 2 việc là lật đổ chính
phủ Ngô Đình Diệm và phá bỏ chương trình Ấp Chiến Lược. Thực sự mà nói, chính
phủ Hoa Kỳ đã nhắn nhiều messages ngỏ ý đưa Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra đi qua
các sự việc: hậu thuẫn ngầm và nửa vời cho cuộc chính biến ngày 11 tháng 11 năm
1960 + cuộc oanh tạc Dinh Độc Lập của 2 phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử
hồi 1962 + Hoa Kỳ cũng tạo dựng cuộc khủng hoảng (giả tạo) Phật Giáo khởi đầu
với «sự tự thiêu» của nhà sư Thích
Quảng Đức. Tổng Thống Ngô Đình Diệm kiên quyết chống lại những ý định của
chính phủ Hoa Kỳ, cho nên chính phủ Hoa Kỳ phải tổ chức cuộc đảo chánh: cuộc
đảo chánh chính phủ Ngô Đình Diệm do Đại Sứ Henry Cabot Lodge thực hiện. Ông
này đến Việt Nam
ngày 21/8/1963 (sau ngày chính phủ Ngô Đình Diệm tống tấn công các chùa chiền
tại Sài Gòn). Mãi hơn 2 tháng sau, cuộc đảo chánh mới thành công vào ngày 1
tháng 11 năm 1963.
Cho đến buổi
sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, chính Đại Sứ Cabot Lodge còn nói: «…Nếu
Tổng Thống muốn ra đi, xin hãy gọi cho tôi. Những việc khác, xin đừng gọi …»
. Tổng Thống Diệm gọi vào Bộ Tổng Tham Mưu mà không gọi cho Đại Sứ Lodge, tức
là phương án B (thường được gọi là option) tự động thi hành. Do đó người viết
không thắc mắc đến vấn đề «Ai là người ra
lệnh giết 2 anh em ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu».
«Nguyên
Ủy» của ẩn khúc thứ tư: từ tháng 8/1963 đến cuối năm 1966, ba nhân vật đứng đầu Tòa Đại Sứ Hoa
Kỳ tại Sài Gòn là Đại Sứ Cabot Lodge, Đại Sứ Maxwell Taylor và ông Lucien
Conein – trùm tình báo. Ông Cabot Lodge là chuyên gia «đảo chánh», ông đã thực hiện một số vụ đảo chánh tại Nam Mỹ và Á
Châu, ông là ứng cử viên Phó Tổng Thống của liên danh Nixon – Cabot Lodge đối
đầu với liên danh Kennedy – Johnson hồi 1960. Hồi khủng hoảng Cuba 1962, ông Cabot Lodge là đại
sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc. Ông Maxwell Taylor là Thống Tướng (5 sao) giải
ngũ, nguyên là Chủ Tịch Ủy Ban Tham Mưu Hỗn Hợp của Hoa Kỳ dưới thời Tổng Thống
Kennedy, thời đệ nhị thế chiến Tướng Maxwell Taylor là tư lệnh sư đoàn Nhảy Dù
101, đã nhảy dù vào đất Pháp khi chiến dịch Normandie khởi đầu. Ông Lucien
Conein nguyên là Trung Tá Tình Báo trong quân đội Hoa Kỳ, ông Conein gốc người
Pháp năm 1944 ông nhảy dù xuống đất Pháp trước khi quân Đồng Minh đổ bộ vào
Normandie. Cả 3 nhân vật vừa nêu đều dùng tiếng Pháp để trao đổi với các tướng
lãnh của VNCH mà không cần thông dịch viên!
Tòa Đại Sứ Hoa
Kỳ tại Sài Gòn đã xúi bẫy, mua chuộc và dụ dỗ các tướng lãnh của VNCH tranh
giành quyền lực, hạ bệ lẫn nhau, lơ là công việc chống lại quân Bắc Việt ngoài
biên thùy, khiến quân lực VNCH bị tổn thất thương vong lên rất cao tại các
chiến trường Toumorong, Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả, Ben Het, Ba Gia, Thạch
Trụ… Hoa Kỳ đã tạo dư luận khiến dân chúng Việt Nam hoang mang khiếp sợ quân đội
Việt cộng sẽ tiến chiếm VNCH: dĩ nhiên dư luận quần chúng mong muốn là quân đội
Hoa Kỳ phải can thiệp vào VNCH để cân bằng thế lực quân sự.
«Nguyên
Ủy» của ẩn khúc thứ năm: đại đa số các chính trị gia và dư luận quần chúng
Việt Nam đồng tình muốn quân đội Hoa Kỳ đổ bộ vào Việt Nam, qua thư mời của Thủ
Tướng Phan Huy Quát, quân đội Hoa Kỳ đầu tiên đổ bộ vào bãi biển Chu Lai (thuộc
tỉnh Quảng Tín) rồi lan rộng qua các quân khu 2, quân khu 3, quân khu 4… Trong
trí nhớ của người viết, chỉ riêng quân đội Hoa Kỳ con số đã lên tới 550,000
người, Tổng Thống Park Chung Hee của Đại Hàn gửi 50,000 quân qua Việt Nam với 2
sư đoàn bộ binh là Sư Đoàn Bạch Mã và Sư Đoàn Mãnh Hổ, 01 lữ đoàn Thủy quân Lục
chiến có tên là Lữ Đoàn Thanh Long và 01 sư đoàn Công Binh (đa số trấn đóng tại
tỉnh Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn và một phần của tỉnh Khánh Hòa).
Trong 3 năm
1965-1968, Tổng Thống Johnson trực tiếp chỉ đạo chiến lược của cuộc chiến qua
học thuyết CHIẾN TRANH LEO THANG và Đại Tướng Westmoreland – Tư Lệnh Quân Lực
Hoa Kỳ tại Việt Nam mở những cuộc hành quân lớn với chủ trương LÙNG và DIỆT
(vào năm 1992, khi đi thăm các cựu quân nhân nhân VNCH ở miền Nam California,
Đại Tướng Westmoreland thổ lộ là ông chỉ huy hơn ½ triệu quân với tiêu lệnh
không được thắng Việt cộng) .
Phải chăng đây
là «điều nghịch lý» của Tổng Thống
Johnson và ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Mac Namara thời kỳ 1964 – 1968?
Người viết cho
rằng 2 điều vừa nêu không «nghịch lý»,
trái lại «thuận lý» nữa là khác.
Chiến Tranh Leo
Thang là phương cách dẫn dụ Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp kéo «đại quân» vào miền Nam (để rồi bị hỏa
lực khủng khiếp của Không Quân, Pháo Binh và bộ binh Hoa Kỳ tiêu diệt): Tổng
Thống Johnson và ông Mac Namara tạo cho Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp cái cảm
tưởng là «cứ cố gắng thêm một chút nữa thì
sẽ chiến thắng». Khi đại quân đã vào Nam rồi thì không thể rút về Bắc được,
nếu Đại Tướng Westmoreland «trù dập»
vài trận đầu khiến quân Bắc Việt bị tổn thất nặng phải rút về Bắc, thì chỉ giết
được số lượng nhỏ, không thể giết được tới 3 triệu tinh binh – như sau này
chúng ta được biết. Thí dụ minh họa: trong cuộc hội thảo về 50 năm chiến tranh Việt
Nam tại Texas , một số học giả nhóm liberals hô
hoán lên rằng «hàng rào điện tử Mac
Namara» hoàn toàn thất bại vì không ngăn được quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam .
Lý luận này
nghe rất ngô nghê và vô lý vì hàng rào điện tử chỉ là những con chip ghi nhận
số lượng người đi qua nó. Hàng rào điện tử không phải là vũ khí bắn chận những
kẻ xâm nhập, mà dữ kiện thu thập đều được truyền về Trung Tâm Dữ Liệu, rồi được
một nhóm chuyên viên Khai Thác Dữ Kiện trình lên Bộ Tham Mưu chỉ huy quyết định
hành xử. Người viết cho rằng, quân lực Hoa Kỳ đã không công bố Trung Tâm Dữ
Liệu và tài liệu Khai Thác Dữ Liệu, chỉ cốt tránh dư luận lên án là đã tàn sát
tới 3 triệu tinh binh miền Bắc, đây là vấn đề nhân đạo, không phải là vấn đề
thuần túy quân sự.
Đa số những
cuộc dội bom bằng pháo đài bay B – 52 dọc theo «đường mòn Hồ Chí Minh» và những cuộc hành quân để đón đầu tiêu diệt
những đại đơn vị của quân Bắc Việt đều căn cứ vào những dữ liệu thu thập từ
hàng rào điện tử. Các toán biệt kích hay trinh sát làm công việc «kiểm chứng» sau khi oanh tạc hay sau khi
oanh kích. Người viết cũng đoan chắc là các học giả hay các tác giả phê phán về
chiến tranh Việt Nam
chưa có ai được đọc các tài liệu của các dữ liệu thu thập từ hàng rào điện tử.
Động từ chiến
thắng có nhiều nghĩa, có thể là đánh đuổi được địch quân ra khỏi vùng đất của
họ hay đuổi đối phương ra khỏi vùng họ tạm chiếm của ta, thí dụ Thủy quân Lục
chiến của VNCH đã chiến thắng Cộng quân Bắc Việt tại chiến trường Quảng Trị vào tháng 9/1972,
cũng có thể là bắt được nhiều tù binh và các chiến cụ, và cũng có thể là quân
lực của đối phương bị tiêu diệt khoảng 50% đến 70%, thí dụ: trong chiến tranh
Triều Tiên năm 1950-1953, quân Trung Cộng tham chiến hơn 01 triệu quân mà bị
hạ sát hơn 400,000 người khiến phải ký hiệp định ngưng bắn Bàn Môn Điếm.
Quân Đội Hoa Kỳ
chiến đấu tại VNCH coi như là «đất nhà»,
đuổi được Cộng Quân ra khỏi «đất nhà»
thì chúng lại sang ẩn náu tại 2 nước láng giềng. «Chiến đấu không được phép thắng» cũng đồng nghĩa là quân đội Hoa Kỳ
phải cần tiêu diệt càng nhiều càng tốt nguồn cung cấp nhân lực cho cuộc chiến,
Hoa Kỳ tính đến việc lui quân đem binh đội Hoa Kỳ trở về nước bắt đầu từ Tết
Mậu Thân 1968 kéo dài tới 27 tháng Giêng năm 1973 thì hoàn tất, vì theo dữ kiện
thu thập, số lượng tinh binh của Cộng sản Bắc Việt đã bị tiêu diệt rất lớn, số còn lại không
đủ để tiến chiếm các vùng khác của Đông Nam Á (hàng rào điện tử ghi nhận số binh sĩ đi
vào Nam mà không ghi nhận bất cứ số quân nhân trở về Bắc, có nghĩa là số quân
đi trước đều đã tử trận).
«Nguyên
Ủy» của ẩn khúc thứ sáu: khác với các chế độ độc tài chuyên chế, lãnh tụ của
chế độ độc tài cai trị cho đến chết (Chủ Tịch Muôn Năm), các Tổng Thống Hoa Kỳ
chỉ được cầm quyền tối đa 2 nhiệm kỳ (tương đương 8 năm). Chiến tranh Việt Nam
bắt đầu từ Tổng Thống Kennedy (1961), mặc dù Phó Tổng Thống Johnson kế nhiệm
Tổng Thống Kennedy bị ám sát chết, Tổng Thống Johnson nắm quyền từ cuối tháng
11/1963 nhưng vẫn được coi là ông đã qua 01 nhiệm kỳ. Do đó ông có kế hoạch
chấm dứt chiến tranh Việt Nam vào cuối năm 1968, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã
phá vỡ kế hoạch của ông bằng cách không bước vào Hòa Đàm tại Paris khiến cho «con gà» của Đảng Dân Chủ là Ứng cử viên Humphrey
thua phiếu Ứng cử viên Nixon. Vấn đề «rút quân»
là vấn đề dĩ nhiên và mang tính cách tất yếu.
Tổng Thống
Nixon chú trọng vào chủ điểm «rút quân
như thế nào» đúng với những lời ông phát biểu trong thời kỳ tranh cử: «…mọi
người dân Hoa Kỳ đừng thắc mắc là chúng ta can thiệp vào Việt Nam như thế nào,
mà hiện nay chúng ta phải quan tâm tìm kiếm phương cách rút ra khỏi Việt Nam
như thế nào?» (Trích từ những bài diễn văn tranh cử, về sau được trích đoạn
trong quyển NO MORE VIETNAM của Richard Nixon). Sau khi lên nhậm chức vào
tháng giêng 1969, Tổng Thống Nixon bay đến Sài Gòn vào tháng 7/1969 và hội
kiến với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập.
Cuộc thăm viếng
này dĩ nhiên không phải là cuộc thăm viếng hỏi thăm sức khỏe thông thường, bỏ
qua những tuyên bố có tính cách ngoại giao mà báo chí cũng như các đài truyền
hình đã đăng tải, chủ điểm mà 2 vị Tổng Thống bàn bạc với nhau phải là vấn đề «rút quân». Ngay từ tháng 9/1972, bản sơ
thảo của Hiệp Định Paris 1973 đã được hé lộ, và sau 12 ngày đêm oanh tạc Bắc
Việt, để bản Hiệp Định Paris 1973 có hiệu lực vào ngày 27 tháng giêng 1973. Đây
cũng chính là ngày Tổng Thống Nixon nhậm chức vào nhiệm kỳ thứ hai: ông đã làm
tròn lời hứa với các công dân Hoa Kỳ là ông chấm dứt chiến tranh Việt Nam trong nhiệm
kỳ đầu. Mặc dầu biết có nhiều thua thiệt cho VNCH, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
phải ký vào bản Hiệp Định Paris 1973 vì chính phủ Hoa Kỳ đưa ra chỉ dấu (mà
nhiều người Việt Nam cho rằng đây là hăm dọa) là nếu VNCH không ký, thì chính
phủ Hoa Kỳ sẽ đơn phương ký thỏa thuận với Bắc Việt.
VNCH là một
quốc gia nhược tiểu, chúng ta không thể đòi hỏi gì hơn những gì mà Hoa Kỳ có
thể có khả năng đáp ứng (chúng ta không thế đòi hỏi chính phủ Hoa Kỳ phải đáp
ứng thỏa mãn mọi yêu cầu của chúng ta), những người chê trách Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu là kém cỏi trong công việc lãnh đạo lèo lái VNCH trong giai đoạn khó
khăn này thì một là những kẻ dốt nát, hai là những kẻ ăn phải bả của Việt cộng, ba là chính Việt cộng sống trong vùng Quốc gia!
Hoa Kỳ đang
trong giai đoạn triệt thoái khỏi Việt Nam nên chữ ký của đại diện VNCH trong
bản Hiệp Định Paris 1973 mang tích chất «có
còn hơn không», khác với chính phủ Ngô Đình Diệm không chịu ký vào bản Hiệp
Định Genève 1954 vì biết chắc Hoa Kỳ sẽ can thiệp vào Việt Nam (nếu ký thì lại
làm trở ngại cho việc can thiệp).
«Nguyên
Ủy» của ẩn khuất thứ bảy: tháng 6/1973, Quốc Hội Hoa Kỳ (do Đảng Dân Chủ
chiếm đa số) đã thông qua đạo luật cấm viện trợ cho VNCH: tài khóa 1974 chỉ
viện trợ 50% nhu cầu, tài khóa 1975 hoàn toàn cắt đứt 100%. Bọn truyền thông
thổ tả và các lãnh tụ Đảng Dân Chủ cho rằng VNCH kém may mắn vì Tổng Thống
Nixon phải từ chức vào tháng 9/1974 vì vụ Watergate. Thực tế là nếu Tổng Thống
Nixon còn tại chức thì ông cũng không có ngân khoản chi trả cho chiến phí trong
điều khoản «một đổi một» của Hiệp
Định Paris 1973
quy định.
Khi Cộng quân
tấn công vào Phước Long, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên – Tham Mưu Phó Tiếp Vận
của Bộ Tổng Tham Mưu cho hay, nếu chiến đấu quân lực VNCH chỉ đủ đạn dược cho
đến tháng 6/1975. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chọn giải pháp lui quân không
giải cứu Phước Long (khiến Trung Tướng Dư Quốc Đống – Tư Lệnh Quân Đoàn 3 bất
mãn). Sau đó, vào tháng 3/1975 Tổng Thiệu cũng ra lệnh cho Thiếu Tướng Nguyễn
Văn Phú rút bỏ Pleiku lui về Nha Trang, rồi Tổng Thống Thiệu cũng ra lệnh cho
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng rút bỏ Quân Đoàn I lui về Cam Ranh rồi về Bình Tuy
và Phước Tuy.
Di tản 1975
Xin lập lại là
Tổng Thống Thiệu đã chọn giải pháp MINIMAX – tối thiểu hóa các thiệt hại to
lớn, vì ông không thể:
● Ra lệnh cho các
vị tư lệnh và anh em binh sĩ tử thủ khi mà súng sống đạn dược chỉ đủ tới tháng
6/1975. Hết đạn dược thì bọn Việt cộng sẽ tàn sát hết.
● Tổng Thống
Thiệu cũng không thể ra lệnh cho các vị tư lệnh và toàn thể binh sĩ VNCH đầu
hàng quân Cộng sản Bắc Việt «để được sống nhục».
● Giải pháp lui
quân sẽ có những hậu quả tổn thất ít nhất về sinh mạng, giải pháp này cũng giữ
lại được «sinh khí dân tộc» qua hình
thúc người Việt tản mác khắp nơi trên thế giới.
«Nguyên Ủy» của ẩn khúc thứ tám: chiến
tranh Việt Nam chỉ là một phần nổi cộm của chiến tranh lạnh giữa khối Cộng Sản
(do Liên Sô và Trung Cộng đứng đầu) và khối Tự Do (do Hoa Kỳ – Anh Quốc đứng
đầu). Tất cả những vị lãnh đạo của VNCH đều biết chúng ta chỉ là những diễn
viên cho những màn tuồng của những đạo diễn (là những bộ óc trong khối
think-tanks và các lãnh tụ của những đại cường). Trong khi những lãnh tụ của
Cộng sản Bắc Việt lại mang ảo tưởng họ là những thế lực chi phối vận mệnh của thế giới (như
Kim Yong Un của Bắc Triều Tiên hiện nay. Chính vì vậy mà họ đã sử dụng toàn thể
vốn quý của đất nước và dân tộc để chứng minh học thuyết Cộng Sản là tuyệt đối
đúng. Họ đã play games với Hoa Kỳ, nhưng họ không biết rằng Hoa Kỳ là bậc thầy
của những games đấu trí, cho đến khi các lãnh tụ Việt cộng thấy Liên Sô và đế
quốc Cộng Sản sụp đổ thì cuống cuồng vơ víu vào Trung Cộng. Hệ quả theo đuôi
Trung Cộng thì sẽ ra sao, thiết nghĩ quý độc giả dư sức biết, người viết không
cần phải bàn luận thêm.
Căn cứ vào
những điều hiểu biết của người viết đã trình bày ở phần trên, người viết lượng
giá trình độ hiểu biết về lịch sử thế giới và lịch cử chiến tranh Việt Nam của
2 tác giả bộ film Vietnam War chỉ ở trình độ lớp 10, nhất là chúng ta phải hiểu
rằng các lãnh tụ của các đại cường không bao giờ công bố những NGUYÊN ỦY CỦA
CÁC BIỆN PHÁP CHÍNH TRỊ MÀ HỌ SẼ ÁP DỤNG.
Đại Úy Nguyễn
Như Quỳnh – sĩ quan CTCT của Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa, khi tham dự khóa
Trung Cấp Chiến Tranh Chính Trị vào năm 1974 có kể chuyện như sau: vào ngày
cuối khóa, Đại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh – Chỉ Huy Trưởng Trường Đại Học Chiến Tranh
Chính Trị đến chủ tọa Lễ Tốt Nghiệp đồng thời giải đáp những thắc mắc và nguyện
vọng của các khóa sinh. Một đại úy khóa sinh nêu thắc mắc là có một giảng viên
thỉnh giảng nêu những vấn đề không phù hợp với đường lối và chủ trương của
chính phủ. Vị đại úy này đề nghị lần sau, Trường Đại Học Chiến Tranh Chiến Trị
không nên mời vị giảng viên này nữa. Đại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh trả lời như sau:
«Các
anh đang theo dự khóa học tại Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, các anh
phải vận dụng kiến thức Đại Học để xem xét và luận việc trước khi làm quyết
định cho chính mình. Các anh không phải là học sinh tiểu học, nên không phải
cái gì người thầy nói thì cũng phải nghe lời.»
Cuốn film
Vietnam War do những người có trình độ lớp 10 về lịch sử thế giới thực hiện thì
không đáng là khuôn mẫu để người xem tin theo, nhất là những khán giả Việt Nam
vừa có kinh nghiệm và kiến thức Đại Học thực tiễn với bọn Việt cộng ma đầu,
cũng như bọn «phản chiến» giả hiệu.
Thi hào Nguyễn
D đã viết: «CHỮ TÂM KIA MỚI BẰNG BA CHỮ
TÀI».
Bọn lãnh tụ của
Việt cộng và đám đảng viên Đảng Cộng Sản vỗ ngực tự hào là «Bên Thắng Cuộc», hãy thành tâm kiểm điểm
là mình thực sự có TÀI hay không? Đã thế TÂM lại xấu xa ma đầu chuyên đi lường
gạt người khác thì tư cách gì để kêu gọi ĐOÀN KẾT DÂN TỘC và HÒA HỢP HÒA GIẢI?
Trần Trung
Chính
Comments
Post a Comment