Câu Chuyện Ngày Xưa
Câu
Chuyện Ngày Xưa
Võ Kỳ Điền
Buổi sáng hôm đó, tôi và người bạn thân đến nhà cụ Diễn trên một gác nhỏ, trong hẻm đường Hiền Vương. Tôi đang rảnh, Thâu cũng vậy, hai đứa đi loanh quanh trên đường phố Sài Gòn quen thuộc, đã mõi chân nên khi ăn uống xong xuôi, Thâu chợt đề nghị coi bói cho biết tương lai.
Nghe tới tên cụ Diễn là tôi chịu liền, từ lâu hằng
nghe đại danh cụ và ước ao được gặp. Tôi đâu ngờ Thâu lại là chỗ thân tình với
cụ và có thể nhờ coi dùm (mà không phải trả tiền và hình như cụ cũng không lấy
tiền của khách, tôi không biết rõ lắm việc này).
Lúc đó tôi còn trẻ lắm, sống ở tỉnh nhỏ, chuyện hôn
nhân cứ trở ngại, trục trặc hoài. Có cái chuyện dễ dàng như vậy mà làm cũng
không xong, cả tỉnh bạn bè nay đứa nầy mai đứa kia, cưới vợ lấy chồng từ từ hết
trơn, thấy mà tức ứa gan…
Do hôn nhân trễ muộn tôi đâm giựt mình, như một nhà
xã hội và tâm lý gia, tôi tự tìm hiểu cá nhân, gia đình, xã hội, kinh tế, tâm
lý… và cuối cùng đổ thừa cho là tại cái nầy, tại cái kia và tìm những khuyết
điểm của mình, tự trách cứ. Lúc đó do công cuộc làm ăn, tôi thường liên lạc với
Thâu.
Thâu nghe tôi kể lể tâm sự, phản đối liền – bạn nói
tầm bậy hết trơn rồi, không phải tại cái gì cả mà tại cái số mạng, cái số ế vợ,…
nếu đúng như mấy lý do kinh tế, tài chánh, gia đình gì gì đó, tại sao có nhiều
thằng xấu trai, học kém, nhà nghèo, nhút nhát, nghĩa là đủ thứ dở tệ… tại sao
cũng có vợ được, tại sao?
Cuối cùng Thâu kết luận - xe hơi còn có số mà, nói
chi người ta. Mà muốn biết số mạng ra sao thì bạn phải theo tôi qua kiếm cụ
Diễn, thần tướng, hiện nhà ở bên kia đường…
Nhà cụ Diễn trên một căn gác nhỏ, trong hẻm đường
Hiền Vương nhiều cây to bóng mát. Bên trong nhà không khí mát mẻ, bàn ghế đồ
đạc bày biện theo kiểu xưa, cổ, có nhiều bức tranh Tàu treo dọc theo tường. Lúc
đó cụ đang bận tiếp khách. Vài ông khách ăn mặc âu phục, complet, cà vạt chỉnh
tề, ngồi đứng chào hỏi dáng vẻ cung kính, khiến tôi đâm e ngại.
Cụ Diễn là một ông già người Bắc tuổi chừng độ trên
dưới bảy mươi, người ốm yếu, mong manh, khăn đóng bạc màu, áo dài mỏng bằng the
đen. Rõ ràng là một nhà nho nghèo lỡ vận, ẩn dật, sống an bần lạc đạo trong
cái không khí ồn ào, rộn rịp của cái đất Sài Gòn văn minh với chiến cuộc đang
leo thang từng ngày…
Trong lúc ngồi chờ đợi, tôi quan sát con người và cử
chỉ thái độ cụ. Cặp mắt quá nhỏ so với khuôn mặt, có lẽ vì tuổi già, thân hình
như gầy hóp lại. Dầu cụ không đeo kiếng nhưng tôi vẫn không thấy được tròng mắt
lớn hay nhỏ.
Hai mí mắt đã cố nhướng cho xa nhau nhưng độ hở vẫn
chỉ to hơn sợi len giăng ngang chút xíu. Tuy lem nhem như vậy hình như cụ đã
thấy hết trơn đời tôi. Sau khi đi qua lại vài bước cho cụ coi tướng, câu đầu
tiên cụ nói như vầy:
- Số ông
suốt đời ở chợ.
Tôi dạ cảm ơn và thấy cười trong bụng- ông thầy nầy
ai cũng khen phục tài giỏi nhưng nói một câu hổng giỏi chút nào. Sáng hôm đó, tôi
ăn mặc bảnh bao, đầu tóc mới hớt gọn ghẽ, lại đi chơi với dược sĩ Thâu, rể ông
đại sứ nổi tiếng, hổng lẽ tôi lại ở nơi thôn quê. Nói như vậy thì ai cũng có
thể nói được. Nhưng tôi cố nhớ lại coi hồi nhỏ tôi có ở nhà quê hay không, quả
là không có.
Tôi được sanh ra tại đảo Phú Quốc, cái đảo nhỏ xíu
như một thôn xóm nghèo, tuy vậy nhà tôi cũng ở ngay tại chợ, thị trấn Dương
Đông. Rồi nhà được dọn vài ba lần, lần nào cũng vậy, mở cửa ra là thấy chợ ở
ngay trước mắt. Tôi kiên nhẫn chờ nghe tiếp.
- Năm
ngoái ông bị đụng xe, may là không nguy hiểm tới tính mạng.
Tôi chợt nhìn xuống khuỷu tay, vết thẹo còn lộ đỏ sau
một lần té xe rất nguy hiểm từ trên dốc Lò Chén. À thì ra, ổng nhìn thấy vết
trầy nầy, bận áo tay ngắn, cái thẹo chần dần như vậy, ai mà không thấy.
- Dạ, dạ,
cụ nói đúng, năm ngoài tôi bị nặng lắm, xém chút nữa là nguy rồi, nhờ phước đức
ông bà… .
- Tuy nhà
ông ở ngay tại chợ nhưng sau nhà lại có vườn cây.
Trời đất! mới nhìn có tôi có chút xíu mà nói được cái
vườn sau nhà, cũng lạ. Sách tướng tôi cũng đã từng đọc qua vài cuốn, có chương
nào chỉ cách nhìn mặt mũi tay chưn mà tả được cảnh vật trước hoặc sau nhà? Bởi
chi tiết này khó thể có được. Miền Nam mình, tỉnh nào cũng vậy, đường đất phố
xá nhỏ hẹp, nhứt là phố chợ, đất dư tính từng tấc, dành để buôn bán làm ăn, chỗ
nhiều đâu mà trồng cây ăn trái… Tôi thấy quả ông cụ có tài lạ, tuy vậy chuyện
cái nhà, cái vườn có gì quan trọng, nói tới nói lui làm chi?
- Nếu ông
không ở trong căn nhà như vậy, thì đã nguy hiểm tới tính mệnh.
Tôi ngồi im, chuyện này cũng không biết ra sao nữa, khoa
phong thủy địa lý dương trạch có nhiều điều không thể nghĩ bàn. Ông cụ vẫn bình
thản, không cần hỏi tới năm tháng ngày giờ sanh, miệng vẫn nói đều đều, thong
thả:
- Hiện tại
ông làm nghề dạy học, dự định đổi đi nơi khác, lần đầu không được lần sau sẽ
được…
Tôi giật nẩy người, đầy mình mọc gai ốc. Làm sao ông
cụ biết tôi làm nghề dạy học, chỉ bao nhiêu đó thôi quả là tay cao thủ. Tôi vừa
ở quân trường ra, sau ba tháng thụ huấn quân sự, tóc hớt ngắn, da đen thui, tay
chưn còn dính đầy nắng gió.
Năm Mậu Thân cuộc chiến tàn khốc, hầu hết thanh niên
cỡ tôi đều vào quân đội. Nếu nhìn dáng vẻ bên ngoài mà đoán tôi là sĩ quan thì
dễ đúng hơn. Đâu có nét nào giống thầy giáo. Rồi làm sao biết được tôi đang xin
đổi nhiệm sở, hồ sơ hiện bị trở ngại. Chắc bạn mình đã nói lỡ nói trước với ông
già này hết trơn rồi, tôi liếc qua Thâu. Thâu tỉnh rụi, thấy ông cụ nói không
điểm nào trật, khoái chí ngồi cười cười…
Rồi lại suy nghĩ, ổng coi cho mình, tốn công tốn sức,
có lấy đồng xu cắc bạc nào, nói gạt, nói dối làm chi.
Lời nói cụ đều đều, thong thả, truyện quá khứ, chuyện
tương lai, công danh, khoa bảng, tiền của, sự nghiệp, bạn bè, tai nạn, bịnh
hoạn… sẽ như thế này, thế kia, tôi vâng dạ liền miệng.
Có đoạn ông cụ nói năm gần bốn mươi tuổi tôi sẽ sống
ở nước ngoài, một xứ phương Bắc rất lạnh và xài tiền bằng Mỹ Kim, tôi đâm tức
cười, không biết là ông còn thức hay đã ngủ, nói mê…
Nhưng mấy cái chuyện xa vời đó có quan trọng gì tới
tôi đâu, cái mà tôi đang chờ để biết là chuyện gia đạo tình duyên mà, nóng ruột
hết sức, tôi rụt rè ngắt lời:
- Dạ, dạ,
nhờ cụ coi dùm chuyện gia đạo vợ con ra sao, hiện tại tôi còn… một mình.
Ông cụ nhướng cặp mắt tí xíu lên, nói rõ ràng như
thấy cô vợ tương lai của tôi trước mặt:
- Người vợ
tương lai của ông, học hành như thế này, gia thế, nhà cửa thế này… cùng nghề
nghiệp với ông.
- Dạ thưa
cụ, theo như cụ nói thì không dám đâu. Tôi ở tỉnh nhỏ, học ít, chỉ muốn tìm
người trẻ tuổi và học kém hơn một chút…
Ông cụ không trả lời, mắt hình như nhắm lại. Tôi nhớ
lại từ đầu buổi cho tới giờ, chuyện quá khứ thì rất đúng nhưng không có gì đặc
biệt, tôi ở trong nhà này hay nhà kia, làm thầy giáo hay sĩ quan thì cũng vậy, còn
chuyện tương lai thì chưa biết ra sao. Duy chuyện vợ con thì hơi lạ, tôi nghĩ
là ông cụ nói trật vì hồi nào tới giờ chưa bao giờ tôi để ý tới bạn gái đồng
nghiệp. Tôi vốn rất sợ cô giáo và những người đàn bà thông minh, học giỏi hơn
mình…
- Thưa cụ,
xin cụ cho biết chừng nào tôi mới cưới được vợ?
Ông cụ không trả lời ngay câu hỏi, chợt mở mắt ra, phán
cho một câu dứt khoát, khiến tôi sửng sốt như bị tạt một gáo nước lạnh:
- Đám cưới
ông hầu như không có.
Trời đất, thiệt vậy sao? Thiệt vậy sao, tôi nghe lỗ
tai lùng bùng. Chuyện cưới vợ đã trầy vi tróc vảy, rồi tại sao sẽ gặp một cô
giáo nghiêm trang… rồi lại không có đám cưới. Hàng trăm câu hỏi tại sao, tại
sao trong đầu. Tôi cảm thấy mồ hôi rịn ra đầy mặt. Sao kỳ cục vậy, căn cứ vào
đâu mà cụ dám nói như vậy. Tôi nhìn thẳng vào mặt, thấy cụ vẫn bình thản, cụ
nói thiệt tình mà đâu phải nói chơi.
Tôi hỏi tiếp, giọng hơi khó chịu…
- Dạ thưa
cụ, tại sao lại không có đám cưới, có phải tôi không đủ tiền cưới vợ?
- Không
phải, nhà ông thiếu gì tiền.
- Vậy tại
sao, nếu có đủ tiền tại sao tôi lại không làm đám cưới. Thú thật với cụ, tôi mà
thương ai, dù người đó mang bầu hay có con rồi, tôi cũng sẽ làm đám cưới chánh
thức, đàng hoàng. Tại sao tôi lại sợ dư luận mà không làm đám cưới, lại dắt con
người ta đi không…
Khi nói đến đây, tôi nhớ lại giai đoạn đó ở tỉnh nhà,
bạn bè nhiều lắm, đứa nào cưới vợ tôi đều sẵn lòng giúp đỡ. Vừa cho mượn xe, vừa
làm tài xế, vừa làm rể phụ, hổng lẽ tới đám cưới mình, không ai tham dự. Ngày
cưới tôi phải vui vẻ và đông đảo bạn bè thân tình chớ. Ông cụ chấm dứt bằng lời
nói giận dỗi:
- Cái mặt
ông làm gì dám dắt ai…
Rõ ràng là ông cụ nói nhiều điều vô lý, tôi không còn
kiên nhẫn ngồi nghe tiếp nữa, đâm ra vô phép, đứng dậy và nói giọng hờn mát:
- Tôi
không dám dắt ai, tôi lại có tiền, vậy hỏi cụ, tại sao lại không làm đám cưới
cho vui. Tại sao tôi không làm…
Ông cụ không trả lời, khoát tay đuổi tôi và Thâu ra
cửa. Tôi cúi đầu cảm ơn từ giã cho có lệ, rồi đi thẳng, bụng không vui. Giữa
trưa nắng thiệt nóng và xe cộ ồn ào, mùi khói xăng khét lẹt, trong phút chốc
những lời tiên đoán của cụ già bay mất tiêu hết, tôi không còn muốn nhớ nữa. Trật
lất rồi, nhớ nữa làm chi. Ngồi trên xe, Thâu phân trần:
- Bạn biết
không, mấy ông hồi nãy toàn là Bộ Trưởng hay Tổng Giám Đốc gì đó. Ông cụ là
thầy tướng riêng cho Tổng Thống với Thủ Tướng, nhưng bữa nay sao ổng nói trật
tới trật lui, tôi cũng thấy kỳ cục, nhiều việc không đúng, chắc ổng bịnh hoạn
hay đương lo việc gì đó, nhớ trước quên sau…
Tôi bộp chộp kết luận một câu ngon lành:
- Thâu nè,
bạn tin tôi đi, không bao giờ tôi cưới cô giáo hết và sẽ làm đám cưới thiệt lớn
để rủ bạn bè nhậu một bữa cho vui. Đời người chỉ có một lần cưới vợ, tại sao
lại không làm, không lớn thì nhỏ chớ, tại sao lại im ru bà rù… Tôi tin đời có
định mạng nhưng cũng tin con người có tự do.
***
Hôm đó là những ngày sau Tết, nhà nàng còn chưng đầy
bông hoa. Cái bình sứ cổ đời Khang Hy thật lớn dùng cắm cành mai to bằng cổ tay
cao tận nóc nhà. Tôi nhìn sững những câu thơ ngoằn ngoèo nét thảo lòi tói và
buộc miệng
- Cái bình
nầy quý lắm đầy rạn da qui, ba dùng như vầy rủi ro nó bể thì sao.
Ông già vợ tương lai cười
- Làm sao
bể được con, ba chưng như vậy cả chục năm nay rồi, có sao đâu.
Mấy đứa em vợ bu quanh chờ ông anh rể quý chở đi ăn
mì. Cả nhà quây quần ấm áp, tiếng nhạc vang vang đầy nhà. Nhà sắp có đám cưới
mà, không vui sao được.
Ông già lắng nghe giọng Khánh Ly trầm ấm vang lên từ
chiếc máy nhạc, tự nhiên quay qua tôi
- Nè nè,
con nghe nè, mấy ông văn nghệ sĩ nói chuyện, viết lách thiệt là hay, cái gì mà…
giọt nước mắt rơi thành hồ nước long lanh…
Câu nói chưa hết, D. lại xí xọn xen vô
- Bản nầy
là Như cánh vạc bay của Trịnh Công Sơn đó ba.
Ông vừa cầm ly rượu sóng sánh màu hổ phách, vừa lẩm
bẩm
- Như cánh
vạc bay, à, à cánh vạc bay ra làm sao, tượng trưng cho cái gì, thiệt tình ba
không hiểu. Rồi khóc mà tới thành hồ nước long lanh - thì thiệt là viết khéo
hết sức, viết được tới như vậy thì trên đời hổng có mấy tay.
Rồi ông ta bàn tiếp:
- Con nghĩ
coi giọt nước mắt có chút xíu, mà làm đầy cả hồ nước là phải khóc nhiều lắm đó
nghen…
Tôi ngạc nhiên, ông là tay buôn bán già đời, suốt
ngày chỉ thấy cộng trừ nhân chia, tại sao không chịu nói chuyện tiền bạc, nhà
đất, của cải, tự nhiên hôm nay sao lại nổi hứng bàn chuyện thơ văn, nghĩ cũng
lạ.
Bất ngờ ông hỏi tôi, giọng ngọt ngào:
– Nè nè, ba
nghe nói con dạy văn chương. Vậy có bao giờ con viết văn hay làm thơ gì không?
Tôi còn đang giai đoạn ở rể, phải cố gắng lấy điểm để
làm vừa lòng ông già vợ. Câu hỏi khiến tôi giựt mình – - Như vậy là ông ta khen
hay chê Trịnh Công Sơn? Câu trả lời tôi phải như thế nào cho đúng. Trời đất ơi,
nhằm cái lúc vui vẻ này mà vợ tôi lại cho hát cái bản nhạc mắc dịch đó làm chi.
Câu hỏi ngọt ngào như viên thuốc bọc đường có phải là
viên thuốc độc? Tôi phải trả lời sao cho vừa ý ông đây? Hồi nào tới giờ quả
tình là tôi không biết viết văn hay làm thơ. Nhưng nếu cần nói láo để được vợ
thì tôi cũng phải liều gan nói đại. Nhưng mà, câu hỏi độc địa này hình như có
liên quan tới cái ý nói láo đó.
Khóc mà tới đầy cả hồ nước thì là nói láo rõ ràng, ai
ai cũng thấy. Nhưng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết ra như vậy và cả nước coi
nhạc sĩ này là thiên tài, nhạc ông vang rền ngập từ chợ đến quê, ban ngày cũng
như ban đêm… Nhưng nói láo nhận mình là văn nghệ sĩ thì khác, không giống kiểu
nói láo trong thơ văn…
Tôi còn đang ấp úng tìm câu trả lời thì may quá, bà
già vợ đi đâu sợt sợt trở về, thấy tôi bà nói một hơi không kịp thở:
- Con về
trình lại với anh chị ở trển, ba má đã về Dĩ An nhờ thầy coi ngày cưới rồi. Ông
thầy này ngày xưa coi cho ba má đó, coi kỹ lắm, ổng tìm được ngày tháng đại
lợi, tụi con sẽ ăn đời ở kiếp với nhau, giàu sang phú quý, tử hiếu tôn hiền…
Nói xong bà lục trong túi đưa cho tôi tờ giấy đỏ, đầy
chữ viết run rẩy của một cụ già, nghe đâu đã trên chín chục. Rõ ràng là ông
thầy Dĩ An coi ngày cưới hỏi thiệt hay, thời gian đã chứng minh được tài năng
của ông. Ông bà nhạc gia tôi sống chung nhau cho tới bây giờ, tiền bạc nhà cửa
sung túc, con cháu đầy đàn, chưa hề biết đến chuyện ly dị khổ tâm, đau đớn ra
làm sao.
Tôi cầm lấy tờ giấy coi ngày cưới, thời gian còn lâu
tới bốn năm tháng nữa, hơi bực mình nhưng nhớ lời dặn dò của ba tôi «theo tao ngày nào cũng tốt hết, ổng bả muốn
trễ sớm lúc nào cũng được, miễn mầy cưới được vợ thì thôi, lần này mà mầy kiếm
chuyện để cho trục trặc nữa là kể như suốt đời không có vợ đó con».
Tôi đã thấm thía chuyện hôn nhân trễ muộn mà cũng đâu
cần ba tôi dặn, năm nay tôi đã ba mươi lăm tuổi rồi, tôi đâu còn ngu mà cà khịa,
giận lẫy, kiếm chuyện kiểu con nít như hồi mười tám, hai mươi…
D. đưa cho tôi cục kẹo, tôi ngậm vào miệng, cắn nhẹ
thấy có rượu mạnh bên trong.
Cuộc đời quả cũng có ngọt ngào, tuy rượu ít nhưng
cũng khiến tôi ngây ngất. Đường Trần Hưng Đạo trước nhà, nắng sáng trong, xe
chảy thành dòng. Nhớ tới lời tiên đoán cụ Diễn ngày nào «đám cưới ông hầu như không có!» Tôi bật cười. Cụ ơi, đám cưới tôi
hả, chắc chắn sẽ rất vui, đông đủ bạn bè, bà con thân thuộc hai bên, làm sao
không có, làm sao mà nhỏ cho được.
Nội bên vợ, anh chị em D. nếu đếm sơ sơ cũng đủ một
chục đủ đầu rồi, nói chi bên gia đình tôi, nội ngoại, sui gia, dâu rể… rồi tới
hàng xóm láng giềng, toàn người thân tình ơn nghĩa, đâu thể nào không mời người
ta đến chung vui.
***
Sau ngày 30 tháng 4, tôi len lỏi trong đám đông hỗn
loạn ngơ ngác, xác xơ, tìm đường xuống Sài Gòn, đến nhà vợ chưa cưới. Vừa gặp tôi,
D. ôm chầm lấy và mừng rỡ. Trong cơn biến động mấy ngày qua, chuyện liên lạc
khó khăn gián đoạn, nàng tưởng là tôi đã thoát ra khỏi quê hương và đành đoạn
bỏ nàng lại một mình, đi biệt tích.
Tôi không biết nên cười hay nên khóc. Tôi trình bày
cho ông bà già vợ chuyện tang thương dâu bể xảy ra trên nhà tôi, tất cả những
dự định tương lai đầy màu hồng ngày nào trở thành xám đen, tan nát hết. Ba vợ
tôi an ủi:
- Con đừng
bi quan quá, dù gì đất nước mình cũng không còn chiến tranh, mọi sự rồi sẽ ổn
định. Lúc đó mình buôn bán làm ăn trở lại…
Trời đất, chế độ này mà ổng còn hy vọng buôn bán làm
ăn như xưa! Mọi sự sẽ ổn định, đúng rồi, đống máy cày của ổng đâu còn chưng bày
ra ngoài hành lang như lúc trước, mà đem giấu tận phía sau nhà. Chị em D. ngày
nào quần là áo lụa, trang điểm kỹ lưỡng từ đầu đến chưn, nay cũng bắt chước mặc
bộ bà ba đen giống như mấy cô thôn nữ chỉ thiếu chiếc khăn rằn vắt trên vai. Mấy
đứa em trai ngồi im lìm, không còn chạy giỡn la hét vang rân như ngày trước.
- Thưa ba
má, nhà cửa, công danh, sự nghiệp, tiền bạc bây giờ kể như mất mát hết rồi,
ngay cả thân mạng con cũng không còn biết ra sao. Bữa nay con xuống thưa với
ba má là chuyện hôn nhân của con và D. phải hoãn lại… cho tới chừng nào, chừng
nào… con cũng không biết nữa. Cũng có thể là không bao giờ.
Nói tới đây tôi nghe D. khóc rấm rứt, rồi không cầm
được nước mắt, tôi cũng khóc theo. Bà già vợ tôi cũng thút thít nhưng còn ráng
nói:
- Đâu được
con, đám cưới tụi con không làm lớn được thì mình làm nhỏ, vợ chồng phải có
cưới hỏi đàng hoàng chớ con!
Hoàn cảnh đất nước quê hương hỗn loạn, tang tóc như
vậy mà làm đám cưới, dù làm nhỏ thế nào đi nữa, dù cố gắng cho lắm cũng không
thể làm được, mà coi cũng không được. Tôi trả lời ngay:
- Thưa má,
con không biết bị bắt ngày nào, bây giờ chỉ còn lo chuyện chết sống, tù đày,
sống chỉ biết được ngày nay, không biết ngày mai ra sao, còn đầu óc đâu mà nghĩ
tới chuyện gia đình riêng tư nữa.
Tôi tiếp:
- Chuyện
vui không có mà chuyện buồn thì nhiều, con nghĩ là mọi sự bế tắc… Mà quả vậy, đầu
óc tôi lúc đó đặc sệt như chì, không tìm ra giải pháp nào ổn thoả hết. Đi không
được, ở không được, sống không được mà chết cũng không được luôn. Tôi có cảm
giác thua cuộc, bất lực, thất bại, tê liệt như con kiến bò trên bờ chảo nóng, lanh
quanh bò hoài cũng không ra khỏi miệng chảo.
Ông già vợ trầm ngâm một hồi, thở ra:
- Ba hiểu
rồi, thiệt là cơ khổ. Nhưng chuyện nhân duyên là chuyện lớn đời người, không
thể vì vậy là hai con không thành chồng vợ. Con về thưa với anh chị, ba má dưới
nầy không đòi hỏi gì cả, cũng không cần có đám cưới.
Tới ngày đó, ba má nấu một mâm cơm gia đình, chỉ cần
có mặt anh chị và ba má chứng kiến cho hai con lạy bàn thờ, xin phép ông bà tổ
tiên để kết duyên thành chồng vợ là đủ.
Tôi ngắc nga, ngắc ngứ:
- Rồi đồ
cưới, khăn áo hoàng hậu, nhẫn cưới cho cô dâu, rượu trà, xe hoa…
Ông nói:
- Con
không cần đem xuống gì cả, kể như là ba má và em con đã nhận lễ vật đầy đủ rồi,
đời bây giờ nhiều chuyện rối rắm lắm, đừng có lo nghĩ thêm chi cho mắc công…
***
Ngày 30-5 năm 1975 nghĩa là sau ngày mất nước một
tháng, tôi cưới vợ và đám cưới hầu như không có. Bên nhà vợ tôi nấu một mâm cơm
cúng tổ tiên, ông bà, hai đứa tôi lạy bàn thờ rồi lạy tứ thân phụ mẫu, ba má
tôi và ba má D. ngồi trên bốn cái ghế đẩu nhỏ sắp hàng ngang trước bàn thờ.
Chỉ có người nhà và không có ai lạ. Vậy là xong lễ
thành hôn. Trong khi hai bên sui gia gặp nhau, cửa nhà đóng kín kỹ lưỡng, sợ
công an khu vực vô phá đám, xui xẻo, hàng xóm không ai biết bên trong chúng tôi
đang làm việc gì.
Ngày hôm sau tôi về Bình Dương, lén dắt vợ đi chào và
trình diện với những thân bằng quyến thuộc. Dù hết sức đơn giản nhưng tôi cũng
có vợ đàng hoàng tử tế, đầy đủ lễ nghĩa! .
Khi viết những dòng chữ này thì ông già vợ tôi đã mất
từ lâu. Nhưng tôi vẫn nhớ rõ những lời ông nói, tình thương ông cho tôi dù bao
nhiêu nước chảy qua cầu, cuộc đời dâu biển, tôi vẫn thương ông như thương cha
ruột tôi vậy.
Cụ Diễn cũng đã mất rồi, những lời tiên đoán của cụ
ngày nào vẫn còn mãi mãi bên tai, làm sao tôi quên được. Tôi nợ cụ nhiều lắm, bây
giờ làm sao trả đây. Không phải là nợ vật chất, tiền bạc, gói trà hay chai rượu
mà tôi nợ cụ lời xin lỗi chân thành cùng lời khen ngợi tài năng cao xa của cụ. Cái
lỗi ngu si của tôi rất lớn, ngày đó tôi còn quá trẻ chưa hiểu đời là gì, đã dám
hoài nghi những điều mình chưa biết.
Võ Kỳ Điền
Comments
Post a Comment