Đứa con dị chủng
ĐỨA
CON DỊ CHỦNG
Tác giả : Minh Đạo-Nguyễn Thạch Hãn
Nguồn: Việt Báo Ngày đăng: 2024-03-13
https://bacaytruc.com/index.php/18080-d-a-con-d-ch-ng-tac-gi-minh-d-o-nguy-n-th-ch-han-vb
Chắc bạn cũng có nghe câu chuyện về ông Phó Thủ Tướng
Đức gốc Việt, từng là đứa trẻ mồ côi bên Việt Nam. Tôi thật sự cảm động muốn
khóc, không phải vì ông là người có tài, đẹp trai, ăn nói khôn ngoan hay làm
lớn mà vì nếu cha mẹ nuôi không mang ông về Đức, có thể hôm nay ông cũng đã là
kẻ lang thang đầu đường xó chợ ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam.
Bạn tôi muốn kể cho quý vị nghe về một đứa trẻ bụi
đời, lang thang đầu đường xó chợ trên đất Hoa Kỳ, nhờ mẹ nuôi Việt Nam mang về
chăm sóc, dậy dỗ đã trở nên người hữu dụng.
***
Tôi lượm được thằng Michael ở bên xa lộ 45 South trên
đường từ Houston đi Clear Lake. Dạo đó vào khoảng năm 1982, tôi mới ra trường và
bắt được một job thơm phức làm cho cơ quan NASA ở Houston trong Mission Control
Center, do một ông bạn học cùng lớp giới thiệu. Cuộc đời tôi gặp bao nhiêu là
may mắn bất ngờ, đúng là trời giúp, cho nên tôi vẫn nhớ ơn ông Trời, cố gắng
học làm người tử tế, dù có chịu thiệt thòi một chút cũng cam lòng.
Số là hôm đó tôi đi làm trễ, vừa từ xa lộ rẽ vô NASA
Road 1, thấy một thằng nhóc đi bộ lang thang bên lề đường, vai mang túi sắc to
tướng, kiểu túi sắc quân đội, như ngày xưa tôi nhận được khi mới vào trường Võ
Bị. Nhóc đưa ngón tay cái lên ngoắc ngoắc xin quá giang, tôi vội dừng xe lại
hỏi:
– Mầy muốn quá giang hả?
– Yes, Sir!
Hắn vội vã quăng cái «xắc» quần áo ra sau xe truck, với tay mở cửa và nhảy phóc lên ngồi
cạnh tôi, mùi mồ hôi bốc lên nồng nặc. Không chịu nổi, tôi phải quay vội cửa
kiếng xe xuống. Tôi hỏi chàng «Trẻ Tuổi
Bụi Đời»:
– Mày muốn đi
đâu?
– Đi đâu cũng
được!
– Nhà mày ở đâu?
– Tôi không có
nhà, mới từ Omaha quá giang xe xuống đây.
Tôi nghĩ trong bụng: «Gặp thứ thiệt rồi».
– Tao phải đi
làm bây giờ, thôi tao thả mày xuống Clear Lake Park, ở đó có đủ cả phòng vệ
sinh và chỗ che mưa nắng, đến trưa tao kiếm cái gì cho mày ăn.
Bà xã tôi hay cằn nhằn về vụ cho mấy tay «bụi đời» quá giang xe. Kể ra thì cũng
nguy hiểm, chẳng may gặp anh chàng khùng nào đó coi mạng người như cỏ rác, vậy
là giống như giao trứng cho ác! Nhưng tôi quan niệm khác, sống chết có số, ngày
xưa lúc còn xông pha trận mạc, mình đâu có tránh đạn được, toàn là đạn tránh
mình thôi. Cho nên mỗi khi lái xe một mình, gặp người xin quá giang, nếu thuận
tiện tôi vẫn «dzớt» như thường. Kể
như đền ơn những người từng cho tôi quá giang hồi mới chân ướt chân ráo định cư
ở Oklahoma City. Hồi đó, mỗi ngày đi làm phải lội bộ hàng mấy cây số trên đường
đầy tuyết. Nếu gặp xe nào cho quá giang thôi mừng hết lớn.
Từ sở làm đến hồ Clear Lake chỉ mất vài phút lái xe,
tôi vẫn hay ra đó ăn trưa, giỡn với mấy con chim hải âu bằng cách liệng lên cao
một miếng bánh mì sandwich thế là cả đám nhào xuống kiếm mồi, bu lại chung
quanh, tôi chỉ vung tay ra cũng túm được một chú. Đôi khi buồn ngủ quá bèn đánh
một giấc như «Những Ngày Xưa Thân Ái».
Buổi trưa tôi mua 2 phần ăn rồi lái xe đi kiếm «Chàng Bụi Đời». Đậu xe vào parking, nhìn
ra mấy bàn picnic sát bờ hồ, thằng nhóc ngồi đó đang chăm chú xem cuốn album cũ
nát. Thấy tôi đến, nhóc vội đứng lên chào và rất mừng rỡ, có lẽ vì túi đồ ăn
khá lớn tôi mang đến. Hắn đưa cho tôi cuốn album và giải thích:
– Tôi thấy sau
kiếng xe của ông có dán cái huy hiệu nhảy dù, chắc ông là người Việt Nam?
– Sao mày biết?
– Ba tôi cũng
từng chiến đấu ở Việt Nam, trên mũ cũng có cái huy hiệu giống như cái ông dán
sau xe. Đây ông xem có đúng không?
Hắn vừa nói vừa chỉ vào tấm hình chụp một chàng lính
Mỹ mặt non choẹt, trên dưới 25 tuổi, đầu đội mũ đỏ của lính nhảy dù Việt Nam
thời xưa, cổ áo mang hai bông mai vàng đàng hoàng. Nếu không có cái mặt Mỹ ai
dám bảo không phải là lính nhảy dù Việt Nam?
Tôi nhìn tấm hình thấy quen quen, đúng là thằng Doug
Salvatore, Trung Úy trong ban Cố Vấn của tiểu đoàn tôi. Sở dĩ tôi nhớ tên anh
ta vì hắn hiền khô it nói, rất thích đội chiếc mũ đỏ nhẩy dù lệch hẳn qua một
bên, gặp ai trong tiểu đoàn bất kể cấp bậc, cũng giơ tay chào miệng lẩm nhẩm «hảy đù kú gắn» Ai cũng cười hiểu rằng
hắn muốn nói «Nhảy Dù cố gắng», Doug
cũng cười theo. Hắn hiền khô it nói, nhưng mỗi khi nhờ gì hắn đều giúp đỡ tận
tình, từ việc gọi hải pháo, phi vụ oanh kích, máy bay tải thương đến xin vật
liệu xây cất doanh trại. Mấy chiếc xe của tiểu đoàn hết bình điện muốn nổ máy,
kêu hắn đến là xong ngay, đẩy xe chạy băng băng một chút xíu, thả chân số là nổ
máy liền. Hắn có thêm một biệt danh khác là «Cargo 5 tấn», ý nói mạnh như xe vận tải 5 tấn. Thỉnh thoảng hắn còn
mua tặng tôi cả đồ trong PX nữa. Lính trong tiểu đoàn gọi hắn là «Đất». Biệt danh đó cũng gần giống với
tên thiệt. Mỗi lần gọi «Đất» hắn chỉ
nhe răng ra cười. Sau này biết được ý nghĩa của chữ «Đất» hắn càng thích thú hơn, Một lần tôi hỏi hắn, sao tên của bạn
là Salvatore, hơi giống như Salvadore vậy, thế bạn có phải gốc Nam Mỹ không?
Hắn nói chẳng có liên quan gì cả, tổ tiên hắn đến từ Tây Ban Nha.
Hắn đã cứu tiểu đoàn tôi nhiều lần trong các cuộc hành
quân thời «Mùa Hè Đỏ Lửa» nhờ xin được
kịp thời những phi vụ yểm trợ vũ bão từ đệ thất hạm đội hay từ căn cứ Utapao
bên Thái Lan. Trong trận giải cứu An–Lộc, tuyến phòng thủ của đại đội bị chọc
thủng. Tôi bị một mảnh cối vào bụng, máu ra lênh láng. Thằng Đất một tay bắn
M16, một tay kéo tôi vào gốc cây cao xu. Hắn xin trực thăng tải thương vào bệnh
viện dã chiến Mỹ, nếu không tôi chắc đã đi luôn rồi. Tôi mang ơn cứu tử của Đất
từ ngày ấy. Sau trận An Lộc, hắn về Mỹ. Tôi mất liên lạc với hắn từ ngày tan
hàng. Bây giờ lại gặp con hắn ở đây, đúng là số Trời. Tôi mừng rỡ ôm lấy thằng
bé, hỏi cuống quýt:
– Tao là bạn của
Doug, ba mày bây giờ ở đâu?
Hắn rớm nước mắt:
– Thật không?
Ông là bạn của Ba tôi hả? Ba tôi chết cách nay 3 năm rồi.
– Kể tao nghe
đi, sao vậy?
– Ổng bị đụng xe
trên xa lộ bởi một người say rượu, chết ngay tại chỗ.
– Má mày đâu mà
để mày đi lang thang như vầy?
– Má tôi có
chồng khác, tôi không thể sống với cha ghẻ nên bỏ nhà ra đi.
– Mầy đi má mầy
có biết không?
– Cả nhà còn
ngủ, chẳng ai biết.
– Mầy còn nhớ số
phone nhà không?
– Tôi có đây,
nhưng giá nào tôi cũng không về đâu.
– Tao đâu có nói
là bắt mầy về nhà, chỉ là gọi cho má mày yên tâm thôi, để bả khỏi báo cảnh sát,
mầy hiểu không?
– Dạ hiểu.
– Thôi được rồi,
quăng đồ đạc lên xe rồi đi theo tao.
Tôi dẫn thằng bé lại Motel 6 và thuê phòng cho nó ở
một đêm, thủng thẳng tính kế lo cho nó. Dù sao nó cũng là con của ngườì bạn đã
có ơn cứu mạng tôi, tôi quyết tâm cứu lại con bạn. Có câu của Phật dạy «Dẫu xây 9 cái gì gì đó, cũng không bằng làm
phúc cứu cho một người». Biết đâu cha nó đã dẫn nó lại cho tôi? Tôi dặn
thằng bé, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo đàng hoàng, chờ tôi sẽ tới đón nó trong
vòng hai tiếng đồng hồ nữa. Tôi lái xe về sở, kể chuyện hoàn cảnh của thằng nhóc
với xếp và mấy người bạn làm cùng nhóm, xin xếp cho nghỉ vài ngày để lo cho nó.
Mỗi người khuyên một câu, đại khái nói tôi phải cẩn thận với mấy đứa trẻ bụi
đời. Chúng nó có cả ngàn chuyện rắc rối, hút sách, đánh lộn, cướp giựt, có khi
nó còn thưa ngược lại là mình lợi dụng làm chuyện bậy bạ, v.v… Tôi đã quyết tâm
cứu nó nên bỏ ngoài tai tất cả những lời khuyên chân thành đó. Tôi chở thằng
nhóc vào sở và giới thiệu với mọi người, đồng thời gọi điên thoại cho mẹ nó,
cho biết nó đang đứng cạnh tôi và muốn nói chuyện với bà.
Tôi tránh ra một nơi để hai mẹ con nói chuyện được tự
nhiên. Một lúc sau trở lại, nhóc nói mẹ nó muốn đươc tiếp chuyện tôi. Bả ngỏ ý
trao toàn quyền cho tôi và cầu xin tôi giúp cháu, bởi vì đời sống trong nhà bà
như ở địa ngục, cha ghẻ con ghẻ không ngày nào là không gây gổ nhau. Tôi chấp
nhận lời cẩu khẩn của bà, yêu cầu bà viết cho tôi tờ giấy, giao thằng Mike cho
tôi, hứa không kiện tụng gì cả và phải có thị thực chữ ký đàng hoàng. Tôi cho
bà địa chỉ nhà tôi, số điện thoại sở và nhà, cần gì cứ gọi cho tôi biết. Tôi
nghĩ, có thể sẽ gặp rất nhiều rắc rối sau này, nhưng chấp nhận vậy. Xưa kia tôi
đã từng chấp nhận biết bao rủi ro nguy hiểm khi ra trận, bây giờ có chút đỉnh
nhằm nhò gì?
Tôi phân vân không biết có nên nói thiệt với bà xã
không? Chắc phải nói rồi, nhưng dẫn nó về nhà chắc là bả không thể nào chấp
nhận được, đành phải gởi thằng nhỏ lại bà chị. Chị tôi có một quán ăn Việt Nam.
Khi còn ở quê nhà, chị cũng mở nhà hàng nho nhỏ, từng nuôi nhiều tay anh chị
trong quán cho nên du đãng không đứa nào dám phá phách hay đòi đóng hụi chết!
Tính tình chị phóng khoáng cởi mở, mấy đứa du thủ du thực đều nể mặt.
Buổi chiều, tôi dẫn thằng nhóc lại nhà hàng, kêu cho
nó một dĩa cơm đồ biển thật to, thằng nhóc chỉ ăn một loáng là hết sạch, như
thể đã nhịn ăn cả tháng rồi. Dặn nó ăn xong cứ ngồi đó. Đợi vãn khách, tôi gặp
chị, nói rõ hoàn cảnh của nó xin chị mở rộng tay cứu giúp nó, chỉ có chị mới
làm được việc này thôi. Xin chị cho nó một chỗ ở tạm, còn mọi thứ khác tôi sẽ
lo. Chị hơi lưỡng lự một chút, thở dài:
– Thôi được, sau
khi đóng cửa tiệm, cậu chở nó về nhà, chúng ta sẽ nói chuyện với nó.
Tôi mừng rỡ quá xá, cám ơn chị rối rít, tôi quay đi để
che giòng lệ tuôn trào. Chị lúc nào cũng quan tâm và che chở bao bọc tôi. Cha
mẹ mất sớm, chị săn sóc và nuôi nấng tôi như mẹ, lúc nhỏ tôi vẫn sống với chị
cho đến khi nhập quân ngũ. Những lần bị thương thập tử nhất sinh chị vẫn là
người bên cạnh tôi. Lớn lên mỗi khi gặp rắc rối trong cuộc đời, tôi đều chạy
đến chị. Thật là Ông Trời đã cho tôi một bà chị để thay thế mẹ. Chị góa chồng
từ năm 1970, ở vậy nuôi ba đứa con trai. Tôi và gia đình chị đã may mắn thoát
được trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam, nhưng đứa con thứ nhì của chị
đã ra đi vĩnh viễn trên đường vượt biển, trong lúc con tàu còn lênh đênh trên
đại dương.
Qua Mỹ, hai chị em xin được việc làm trong một nhà
hàng Tàu. Chị phụ nấu bếp, còn tôi làm chân «chạy bàn». Chị bắt tôi phải đi học, chỉ cho làm cuối tuần thôi.
Nhiều khi thấy chị vất vả quá, tôi xin chị cho tôi nghỉ học để phụ giúp gia
đình nhưng chị cương quyết từ chối. Chị nhắc nhở tôi đó là bổn phận của chị đã
được cha mẹ giao phó trước khi nhắm mắt, phải lo cho tôi ăn học đến nơi đến
chốn, thành gia thất đàng hoàng, nếu không sau này làm sao nhìn mặt các người
nơi suối vàng. Mỗi năm, vào ngày giỗ cha mẹ. chị bắt tôi phải thề trước vong
linh các cụ là không được bỏ học dù bất cứ hoàn cảnh nào, cho nên tôi cố gắng
học, vật lộn với tiếng Anh tiếng u, những phương trình đại số và toán giải
tích. Những thứ đó chỉ còn lờ mờ trong trí óc cằn cỗi của tôi sau bao nhiêu năm
lăn lộn ngoài chiến trường. Nhiều khi làm bài không kịp, phải ngủ đêm ngay tại
trường trong các phòng học. Có lần mệt mỏi quá, tôi đã ngủ gục khi lái xe về
nhà, rõ ràng tôi đã thắng xe lại khi đến đèn đỏ, thế mà vẫn tông vào đít xe
trước mặt. Báo hại phải năn nỉ chủ xe rồi bỏ tiền túi ra bồi thường. Đã bao lần
tôi muốn bỏ cuộc, nhưng tôi tự nhủ «Nhảy
dù cố gắng!» nhưng phần lớn vẫn là không muốn phụ lòng mong ước của chị.
Ngày tôi ra trường, khi nhìn tôi được gọi tên lên lãnh bằng, chị là người la to
nhất, hơn cả mấy đứa nhóc. Chị sung sướng hơn cả tôi, tôi ra trường, nhưng mảnh
bằng là của chị, công lao là của chị. Hai chị em ôm nhau chụp hình kỷ niệm mà
nước mắt chị ướt trên ngực áo tôi. «Thế
là tâm nguyện của chị đã thành, chỉ còn việc cưới vợ cho cậu nữa là xong»,
chị nói với tôi như thế trong buổi tiệc ăn mừng. Tôi đã già đầu rồi, bao nhiêu
năm chiến trận, đã từng chỉ huy hơn một đại đội nhảy dù, thế mà chị vẫn nghĩ
tôi còn con nít.
Trở lại chuyện thằng nhóc, 10 giờ tối, tiệm bắt đầu
dọn dẹp đóng cửa. Tôi dẫn nó lại giới thiệu với chị và xin phép chị chở thằng
nhóc về nhà trước.
Tôi cắt nghĩa qua loa về phong tục tập quán của người
Việt, kính trọng người lớn tuổi hơn mình, nhất là người già cả, thế nào là tiên
học lễ hậu học văn, kính trên nhường dưới, những điều căn bản đạo đức của người
Việt không tìm thấy trong sách giáo khoa ở trên đất Mỹ này. Nhóc hứa với tôi từ
nay sẽ chăm chỉ học hành không la cà hút sách nữa. Nghe vậy tôi cũng yên lòng.
Tôi thấy thương nó như chính con tôi vậy.
Buổi tối, cả nhà quây quần trong phòng family room. Thằng
nhỏ được mang ra trình diện:
– Đây là Mike,
còn đây là bà Ánh, hai người con của Bà là Dũng và Trí.
Cả nhà bắt tay nhau và nói lời chúc tụng xã giao. Bà
chị tôi dặn thằng Mike:
– Từ nay con gọi
ta là Má Ba, mặc dù tên của ta là Ánh, ta đã nhận con là con, ta sẽ đối xử với
con như hai đứa con của ta, con có chịu không?
Thằng nhóc nói lí nhí:
– Yes, Má Ba.
– Con bao nhiêu
tuổi?
– Dạ 14.
– Thằng Trí 16
là anh Hai, thằng Mike ta đặt tên Việt Nam là Mai, là anh Ba, thằng Dũng trẻ
nhất 12 tuổi là Út cũng gọi là thằng Tư nghe chưa. Tất cả đều dạ ran, Thằng
Mike chẳng hiểu đầu đuôi ra sao tôi phải cắt nghĩa cho nó hiểu.
Con lớn nhất của Má Ba nickname gọi là Number Two, nó
được gọi là Number Three, trên thằng Tư một bực. Nó thắc mắc sao không có
Number One. Má Ba trả lời đó là luật lệ. Còn luật nữa là ở nhà chỉ nói tiếng
Việt thôi. Bắt đầu từ ngày mai, thằng Mai cũng phải nói tiếng Việt. Má Ba cho
một đặc ân, trong mấy tháng đầu, nếu thằng Mai không biết tiếng Việt, cho phép
thằng Hai và thằng Út nhắc nhở.
Chị tôi nói tiếp:
– Ngày mai cậu
Út dẫn thằng Mai đi xin học, về nhà phải học và làm bài tới 9 giờ tối, sau đó
muốn coi TV hay làm gì khác tùy ý, 10 giờ tối phải đi ngủ. Chủ Nhật phải đi lễ
sớm, thằng Mai phải ghi danh học Việt Ngữ ở trường Nhà Thờ như hai đứa kia.
Thằng Út lên dọn phòng cho thằng Mai ngủ.
Tôi cười nói với chị:
– Toàn là “phải”
này “phải” kia y như bà “xếp” của em vậy.
– Thằng Mai “phải”
nghe lời Má Ba nghe chưa!
Nhóc vội vàng trả lời:
– Yes, Sir!
Chị lườm tôi:
– Mấy đứa này
phải dặn kỹ càng như vậy mới được, còn không vào lỗ tai này ra lỗ tai kia mất
cậu ơi!
Hướng về thằng Mai chị tôi hỏi:
– Sao mày bụi
đời?
Thằng Mai rớm nước mắt, ngập ngừng một lúc mới thốt
nên lời:
– Má Ba ơi, con
rất cô đơn và buồn khổ, lớn lên không cha. Cha ghẻ của con là một người cộc
cằn, khó tánh và nghiện rượu, trong nhà cãi lộn xảy ra hàng ngày. Tất cả giận
giữ của mẹ và cha ghẻ đều đổ lên đầu con. Cuối cùng con phải bỏ nhà ra đi.
– Rồi mày ở đâu,
làm sao mà sống?
– Con phải ngủ
dưới gầm cầu hay trốn vào mấy căn nhà bỏ trống. Ăn cắp đồ, lục thùng rác hay
bán cần xa ma túy để kiếm sống.
Chị xoa đầu thằng nhóc và khuyến khích nó rồi dẫn tôi
đến thắp nhang bàn thờ cha mẹ, hứa sẽ chăm nuôi thằng Mai như con chị. Chị nói
với tôi có lẽ Chúa mang thằng Mai cho chị, để an ủi chị những lúc thương nhớ
thằng con đã bỏ chị ra đi. Thế là chị lại có ba đứa con như xưa. Tôi thấy chị
lau vội hai giọt nước mắt vừa lăn trên má.
***
Bà chị tôi áp dụng luật lệ giang hồ và rất nghiêm khắc
với mấy đứa con. Anh rể tôi qua đời từ khi mấy đứa còn rất nhỏ. Anh là một Phật
tử thuần thành, vẫn hay đi Chùa vào những dịp lễ lớn. Chị là con chiên của
Chúa, hai người khác đạo nhưng vẫn sống với nhau hòa thuận, đạo ai nấy giữ, mấy
đứa con thì vừa cho đi nhà thờ vừa cho đi chùa. Sau khi anh mất chị ở vậy, làm
ăn vất vả để nuôi con ăn học. Qua Mỹ, tôi và chị đi làm công một thời gian, hai
chị em để dành được một số vốn nhỏ rồi mở tiệm ăn Việt Nam. Bạn bè Mỹ của mấy
đứa cháu đến nhà chơi phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn Việt Nam. Có lần chị giải
thích với mấy đứa con:
─ Chúng mày tới nhà bạn Mỹ phải nói tiếng Mỹ, tiếng của cha mẹ chúng nó phải không? Ăn đồ ăn của cha mẹ chúng nó phải không? Vậy thì chúng nó cũng phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn của tao, thế mới công bình chứ.
Mấy đứa con hết ý luôn. Mấy đứa nhóc Mỹ ăn đồ ăn Việt Nam riết rồi đâm ghiền, món gì cũng không từ, nước mắm, mắm tôm cũng mê luôn, chúng gọi mắm tôm là mắm «con chuột».
Chỉ một thời gian ngắn, thằng Mai đã có thể nói chuyện
thông thường hằng ngày bằng tiếng Việt. Nó lớn lên trong tình thương gia đình
của chị tôi, nó rất hãnh diện có một mái nhà ấm cúng và một người mẹ thương yêu
chăm sóc cho nó. Ngày thường cả ba đứa nhỏ đều đi học. Ngày Chủ Nhật, sáng đi lễ
nhà thờ rồi theo học lớp Việt ngữ tại đó, chiều đi lên chùa học võ VOVINAM và
họp Hướng Đạo. Ngày này qua tháng nọ, thằng Mai đã thành một đứa nhỏ Việt Nam
từ cách ăn nói lễ phép, đi thưa về trình hẳn hoi, biết khoanh tay chào người
lớn tuổi, biết cầm hai tay dâng đồ ăn cho Má Ba, biết quỳ lạy trước bàn thờ cha
mẹ tôi. Ngày Tết cũng biết mừng tuổi chị tôi, biết cầm cờ vàng đi biểu tình
ngày quốc hận. Nó hòa đồng với tụi nhóc Việt Nam chẳng khó khăn gì. Gặp người
Việt họ vẫn tưởng Mai là đứa con lai, ai cũng khen ngoan và lễ phép, có đâu ngờ
rằng nó là thằng Mỹ con chính hiệu con nai vàng! Nếu mấy đứa con nít Việt Nam
lớn lên trên đất Hoa Kỳ bị gọi là «Chuối»
ngoài da vàng, nhưng trong đầu óc đã Mỹ hóa hoàn toàn! Thì phải gọi thằng Mai
là bánh bao, ngoài thì trắng trong thì hầm bà lằng đủ thứ.
Mai và thằng Út học chung một lớp, đi đâu cũng có
nhau, anh em rất thân thiết. Nó hay săn sóc hỏi thăm sức khỏe chị tôi, bắt
chước thằng Út rót nước mời chị mỗi khi chị đi làm về, đôi khi còn nấu những
món ăn nhà quê của người bản xứ mời chị ăn. Má con càng ngày càng thắm thiết.
Chị cũng rất thương nó, có khi còn hơn cả mấy đứa con ruột của chị. Chị vẫn hay
than thở với tôi «Tội nghiệp thằng Mai,
có mẹ cũng như không.»
Một hôm chị nhờ tôi vô trường xem có chuyện gì xảy ra
cho thằng Mai và thằng Út, vì nhà trường yêu cầu chị đón chúng nó về nhà. Hai
đứa đã đánh lộn với một đám học sinh khác trên xe buýt và bị bị đuổi học hai
ngày. Chị tôi chửi cho một trận nên thân và phạt đứng úp mặt vào tường 2 tiếng
đòng hồ và dặn lần sau không được đánh lộn nữa.
– Tại sao hai
đứa mày đánh lộn? Chị hỏi.
Thằng Mai giành phần:
– Tại mấy đứa
học sinh trên xe buýt chọc ghẹo thằng Út ăn hiếp nó, gọi nó là «chink choong»
hay «Ê Chinese go home». Con đã nói thằng Út với con là anh em, chúng nó không
chịu để yên cho thằng Út. Thế là đánh.
– Lần sau phải
thưa nhà trường, không được đánh lộn nghe không? tao bảo không nghe, tao không
chửi bằng tiếng Việt nữa đâu. Tao sẽ ra trước cửa nhà chửi chúng mày bằng tiếng
Mỹ cho tất cả hàng xóm nghe cho xấu hổ cả lũ.
Từ đó thằng Mai không dám đánh lộn nữa.
***
Mai và Út ra High School cùng một lượt, rồi ghi danh
vào UT (University of Texas at Austin) cùng với anh Hai của chúng. Tôi mua cho
hai đứa một chiếc xe Toyota nhỏ để thỉnh thoảng về thăm nhà. Tôi nhận phần trợ
cấp tài chánh cho ba đứa nhỏ thêm vào số tiền trợ cấp của chính phủ, để tiếp
tục chương trình đại học. Chị tôi cuối tuần nào cũng lái xe lên Austin để tiếp
tế đồ ăn cho mấy nhóc. Chị một đời làm thân cò lặn lội bờ ao, nay tóc đã bạc
quá nửa, con cái đã đi hết, nhà cửa thật trống vắng. Tôi mời chị qua ở chung
với tôi, nhưng chị một mực từ chối, tôi phải biểu mấy đứa nhỏ nhà tôi qua thăm
hỏi chị luôn. Đôi khi chúng ngủ luôn lại nhà chị và coi chị như mẹ chúng.
Một hôm tôi nhận được cú điện thoại của thằng Mai gọi
về:
– Cậu Út ơi, cứu
con với.
– Mày làm sao
vậy?
– Con đang ở
City Jail! Cậu đừng cho Má Ba hay nghe, bả biết được, chửi con thì cả hàng xóm
đều biết, con xấu hổ lắm không dám về nhà đâu.
– Mày biết xấu
hổ sao còn làm bậy.
– Con bị oan Cậu
ơi.
– Mấy thằng
trong tù, đứa nào mà chẳng kêu oan.
– Cậu không tin
con, thì ai tin con bây giờ?
– Nói tao nghe
thử oan nỗi gì.
– Con gọi điện
thoại trong nhà tù, chỉ được gọi giới hạn thôi. Cậu lên đây bail con ra rồi con
sẽ giải thích cho Cậu nghe, Cậu phải tin con mới được.
Tôi sợ thằng Mai dính vào cần sa ma túy thì tiêu đời,
tôi vội hỏi nó:
– Mày buôn bán
ma túy phải không?
– Đâu có nào,
con bị cảnh sát gài bẫy, nói là con solicit prostitutes.
Tôi thở ra nhẹ nhõm, chỉ là tội thường phạm thôi, chắc
chỉ bị cảnh cáo hay làm public service vài giờ là cùng.
– Thôi được, mai
tao sẽ lên đó lãnh mày về.
Sáng hôm sau lên đến nơi, Mai đã dược chuyển về nhà tù
của County rồi. Tôi phải nhờ văn phòng «Bail
Bond» để lãnh nó ra, trả hết $500 tiền bail và $250 tiền lệ phí cho văn
phòng. Sau khi nạp tiền bail, thằng Mai được thả ra chờ ngày ra tòa. Tôi hỏi
Mai:
– Mày nói cho
Cậu nghe, làm sao mà cảnh sát bắt mày?
– Cậu ơi, con
oan thiệt mà. Sáng hôm qua con đi đổ xăng, thấy có con nhỏ bị hư xe, con tới
coi giúp nó, cuối cùng là chẳng có hư gì cả chỉ là hết xăng thôi.
– Nó ăn mặc sexy
lắm phải không?
– Sao Cậu biết?
– Thì nó muốn
làm mờ mắt mày để nó nói gì thì mày cũng OK, tao còn lạ gì chuyện đó.
– Cậu còn chọc
quê con nữa! Con nhỏ nói nó đi bụi đời vì không ở nhà được với cha ghẻ, mấy hôm
nay sài hết tiền rồi, chẳng còn xu teng nào trong túi. Con nghĩ tới hoàn cảnh
của con ngày xưa nên muốn giúp nó, giống như Cậu đã giúp con vậy.
– Thế tao giúp
mày tao có bị cảnh sát bắt không?
– Cậu đừng la
con nữa mà. Nó nói cái gì nhỏ lắm con nghe không rõ con nghĩ là nó muốn xin
tiền để đổ xăng. Dù nó không xin thì con cũng cho mà, thế là con đưa cho nó
$20. Con nhỏ vừa cầm tiền là đám cảnh sát chìm nhào tới còng tay con liền. Con
hỏi tại sao họ bắt con, họ nói là con mắc tội mua dâm. Con nói chỉ là cho tiền
con nhỏ đổ xăng thôi, không tin cứ hỏi con nhỏ kia thì rõ, đám cảnh sát nói mai
mốt ra Tòa mà cãi.
– Con nhỏ đó
cũng là cảnh sát chìm để gài bẫy mày thôi, mầy xập bẫy rồi làm sao ra được.
– Con xin con
nhỏ nói vài lời công bằng cho con, nó chỉ cười cười thôi. Con muốn đục cho nó
mấy cái quá đi.
– May mà mày
không đục nó, chỉ nặng tội thêm, thôi được đi kiếm cái gì ăn đã, tội mày cũng
nhẹ, để tao nhờ luật sư lo cho. Lần sau muốn giúp ai phải cẩn thận. Mày phải
lựa lời nói cho Má Ba biết, kẻo mai mốt bả biết được thì liệu hồn đó.
– Vậy tối nay
con sẽ gọi cho Má Ba, Cậu nhớ nói giúp con một tiếng nghe, không thôi bả chửi
con sặc máu đó.
– Người ta nói “oánh
sặc máu” chứ chửi sặc máu sao được mày!
– Thì con nói
vậy Cậu hiểu rồi, Má con chửi cũng sặc máu đó Cậu ơi!
– Biết dzậy sao
còn làm bậy.
– Con oan mà
Cậu.
Tôi nhờ văn phòng bail bond giới thiệu một luật sư,
giá $300 lệ phí. Vì chưa có tiền án, thằng Mai chỉ bị phạt 2 ngày làm công tác
cộng đồng thôi.
***
Mai và Út ra trường cùng một lượt. Chị Ba và tôi cùng
đi dự lễ mãn khóa, Chị rất mừng, ôm hai đứa con mà mắt đỏ hoe nói với chúng:
– Các con ơi,
đây là sự thành công lớn nhất trong đời Má, tất cả các con đã thành tài và nên
người.
Mẹ ruột của Mai vì bịnh nặng không thể đến được, ba
ghẻ của nó cũng không muốn đến. Thằng Út được hãng Boeing ở Seattle nhận vào
làm, Út ở chơi với Mẹ hai tuần rồi đi nhận việc. Thằng Mai đã có ý ở nhà với
chị tôi, nên ngỏ ý:
– Má à, đã từ
lâu con nghĩ, anh Hai và thằng Út đều đi làm ở xa, con muốn ở lại nhà để săn
sóc Má, cho nên con đã nạp đơn vào trường Baylor College of Medicine ở Houston.
Khóa Fall sắp tới sẽ nhập học. Con xin Má cho con về thăm Mẹ con ở Omaha rồi
trở lại ngay. Từ nay con sẽ mãi mãi ở nhà với Má và chăm sóc cho Má suốt đời.
Chị tôi rất cảm động khi nghe những lời chân tình đó,
không cầm nổi nước mắt, ôm thằng Mai khóc vùi:
– Má rất cám ơn
con đã lo cho Má, con không cần phải làm vậy, Má tự lo được mà.
– Má không sinh
ra con nhưng đã cứu vớt con từ bãi sình lầy và ban cho con đời sống mới đầy ắp
tình thương, chau chút cho con từng miếng cơm manh áo. Không kể những ngày đau
ốm bênh hoạn, Má luôn luôn ở bên con, cầu nguyện cho con chóng khỏi. Tha thứ
cho con bao lỗi lầm.
– Thiên Chúa đã
mang con giao cho Má, Má chỉ làm bổn phận của một người mẹ như bao nhiêu người
mẹ khác trên thế gian này.
Mẹ ruột thằng Mai bị ung thư phổi, qua đời chẳng bao
lâu sau đó. Tôi và thằng nhóc bay về Omaha đưa đám, đó là lần cuối cùng nó gặp
lại mẹ và cha ghẻ. Ông nay cũng đã già lắm rồi, những chuyện cũ hầu như không
nhắc lại nữa, nhưng khoảng cách thì vẫn còn đó. Khó cho ai mở đầu một cuộc hòa
giải, mặc dầu cả hai đều muốn. Tôi phải làm một nhịp cầu để hai người bắt đầu
đối thoại và tha thứ cho nhau. Chỉ là những hiểu lầm thôi. Ngày chia tay, Ông
Già và thằng Mai ôm nhau khóc vùi, những giận hờn đều trôi theo giòng nước mắt.
***
Mấy năm qua thật mau, Thằng Mai ra trường và nội trú
tại Texas Children Hospital trong khu vực Medical Center ở Houston. Nó muốn trở
thành một Bác sĩ Nhi Khoa để săn sóc cho trẻ em, nhất là những trẻ em bụi đời.
Thằng Mai bây giờ đã là một Bác Sĩ, nhưng với tôi, nó vẫn chỉ là thằng nhóc bụi
đời. Nhóc được rất nhiều trường học và Juvenile Probation Center mời đi nói
chuyện về đề tài «Run Away From Home»
Trẻ Em Bụi Đời. Nó trở thành một thần tượng của đám con nít vô gia đình. Nhưng
không phải đứa nào cũng may mắn như nó, phải có một cơ duyên và một quyết tâm
sắt đá mới vượt qua bao thử thách. Đường đời có bao nhiêu ngã rẽ, được mấy khúc
phẳng phiu?
Minh–Đạo & Nguyễn Thạch–Hãn
Comments
Post a Comment